Trong cuốn Cơ sở triết học của văn hoá nghệ thuật Việt Nam do Đỗ
Huy chủ biên (NXB văn hóa thông tin, Hà Nội, năm 2002) các tác giả đề
cập đến những khía cạnh phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan mật thiết đến nền tảng và tư duy triết học
cả sự phát triển văn hoá nghệ thuật nói chung, sự phát triển của các mê thức
văn hoá nghệ thuật Việt Nam nói riêng.
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay chưa có công trình nào xuất bản
và công bố trùng với hướng tiếp cận và đối tượng nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Từ quan điểm của triết học Mác-Lênin về văn hoá và vai trò của văn
hoá, làm rõ những giá trị và đề xuất các giải pháp xây dựng đời sống văn
hoá mới ở huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế.
Nhiệm vụ:
- Phân tích quan điểm triết học Mác - Lênin về khái niệm bản chất,
cấu trúc, chức năng và giá trị của văn hoá.
- Làm rõ giá trị văn hoá ở huyện Nam Đông và đề xuất giải pháp xây
dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận là quan điểm triết học Mác - Lênin, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá và vai trò của văn hoá.
Đề tài kết hợp vận dụng những nguyên tắc của phép biện chứng duy
vật với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như logic và lịch sử, phân tích
và tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá, so sánh, điều tra xã hội học.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đời sống văn hoá ở huyện Nam
Đông, Thừa Thiên Huế hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ những giá trị văn hoá của huyện Nam Đông
và đề xuất giải pháp phát huy những giá trị đó giai đoạn hiện nay.
Đề tài này có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội - nhân văn, nhất là trong nghiên cứu về văn hóa góp
5
phần tích cực cho việc tìm kiếm các giải pháp phát huy bảo tồn giá trị văn
hoá truyền thống ở huyện Nam Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 2 chương (5 tiết).
6
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VĂN HOÁ
1.1. Khái lược về phạm trù "văn hóa"
Văn hóa là một trong những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ rất
sớm. Nói cách khác, văn hóa tồn tại phát triển gắn liền với xã hội loài
người và ngày càng được bổ sung thêm những nội dung mới, nhân lên ở
tầm cao cùng với sự thăng tiến về tri thức của nhân loại. Nhưng trí tuệ đó
không bỗng dưng mà thành, nó phải đươc bồi đắp theo quy trình từ thấp lên
cao, theo tính quy luật đi từ chưa nhiều đến nhiều hơn, từ chưa phong phú
đến phong phú hơn, từ chưa sâu sắc đến sâu sắc hơn, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.
Cho đến nay loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế xã
hội và mỗi một hình thái như vậy biểu hiện những đặc trưng khác nhau của
mỗi phương thức sản xuất. Đây là những bước tiến dài nhưng cũng rất đa
dạng và phong phú, bởi vì đó là một quá trình tồn tại trong vận động. Chính
sự vận động của phương thức sản xuất là nhân tố căn bản nhất tạo ra đời
sống vật chất và tinh thần của con người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định, trong đó văn hóa là một lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần, là kết quả
trực tiếp từ quá trình hoạt động vật chất, biểu hiện sinh động đời sống của
con người.
Vào buổi bình minh của xã hội loài người, với sự tồn tại của cách
thức sản xuất săn bắt, hái lượm, con người sống thành bầy đàn, làm chung,
ăn chung, ở chung, quần tụ trong một xã hội không có ‘‘dải phân cách”,
cho nên văn hóa của xã hội này là ‘‘văn hóa đại đồng”. Chính phương thức
sinh tồn cộng đồng này là cơ sở của sức mạnh tập thể, đó là dấu hiệu gắn
kết những con người riêng biệt thành xã hội. Tuy nhiên trong cộng đồng
này, ‘‘lượng thì mạnh nhưng chất thì yếu” nên con người trở nên thụ động.
Mặc dù trình độ vật chất và sinh hoạt tinh thần còn thấp kém, nhưng vẫn
chứa đựng những chân giá trị. Con người đã biết giao tiếp, tương trợ lẫn
nhau trong tiến trình tìm kiếm sự sinh tồn và chống chọi với thách thức của
thiên nhiên. Bên cạnh đó, con người đã biết sử dụng lực lượng tự nhiên để
chinh phục tự nhiên, biết chế tạo công cụ mà ban đầu rất thô sơ để đáp ứng
7
nhu cầu vật chất tinh thần của con người. Đó là buổi đầu con người thực
hành văn hóa trong đời sống.
Lúc bấy giờ, dù chưa có ngôn ngữ, chữ viết, tri thức về thế giới còn
rất sơ khai nhưng con người đã biết thực hành văn hóa trong đời sống. Dù
là những cử chỉ, những hành động, những ký hiệu và những công cụ thô sơ
nhưng đã chứa đựng ý tưởng, những giá trị mang màu sắc văn hóa của con
người.
Tuy nhiên tư duy triết học phải thừa nhận rằng, sự tồn tại của chế độ
chiếm hữu nô lệ tuy mang đậm màu sắc của một nền văn hóa kém nhân
văn, nhưng chính sự bạo ngược về quyền con người đã tạo thành một cơ sở
lịch sử để nhân loại ý thức được về một giá trị đối kháng giàu tính nhân
bản. Nhìn một cách toàn diện, đây là hai mặt của một vấn đề, đan xen tạo
nên mâu thuẫn. Chính mâu thuẫn này là động lực để xã hội loài người đấu
tranh, khắc phục sự yếu kém để tiến bộ hơn.
Văn hóa phong kiến đã đưa con người vào vòng luân lý, ràng buộc
con người trong tính chặt chẽ của thể lệ, của giáo lý tôn giáo. Với sự thống
trị của tầng lớp quý tộc (ở Phương Tây), địa chủ (ở Phương Đông), hình
thái kinh tế xã hội thứ ba này không khác hơn hình thái trước về tính chất
bóc lột vì nó dựa trên cơ sở quân chủ chuyên chế, độc quyền. Vì vậy văn
hóa vẫn là ý thứ của giai cấp thống trị, chi phối đời sống tinh thần của đại
thể cần lao. Song nhìn nhận một cách khách quan rằng, văn hóa phong kiến
nếu loại trừ tính chất bạo ngược của giai cấp thống trị thì có nhiều giá trị
quý báu cần phải được ghi nhận. Chính những chân giá trị về đạo đức, lối
sống được xây dựng từ chế độ phong kiến đã làm nên nhân cách con người,
và góp phần không nhỏ vào chuẩn giá trị xã hội. Từ những khuôn tắc trong
quan hệ ứng xử mà chế độ phong kiến tạo ra đã giúp cho con người phần
nào nhìn nhận được chính mình, ý thức được chính mình, và vì vậy, lương
tâm giàu tính trắc ẩn hơn, sống có hậu hơn. Tuy nhiên trên tinh thần phát
triển cũng phải thấy rằng, luân lý phong kiến không thể trở thành giá trị bất
biến, cho nên đằng sau ánh sáng là khoảng tối, khoảng tối này là bức tranh
ảm đạm về quyền dân chủ và bình đẳng của con người. Đây là khiếm
khuyết không chỉ của riêng đối với hình thái kinh tế - xã hội Phong kiến mà
8
là khuyết tật chung của cơ chế có giai cấp bóc lột. Vậy nên, nó phải được
thay thế một phát triển mới tiến bộ hơn.
Chủ nghĩa tư bản xuất hiện được xem là ánh sáng xua tan đi đêm
trường trung cổ. Sức mạnh khoa học đã đẩy những mặc khải của Kinh
Thánh chìm sâu vào tâm khảm của con người. Ở thế tục thần học phải
nhường ngôi vinh quang cho khoa học. Những giá trị nhân văn của thời kỳ
cổ đại được khôi phục một cách kỷ càng và những chân giá trị mới ngày
càng được bổ sung, đặc biệt là cái đẹp. Con người đã tự ý thức được giá trị
đích thực của mình.
Đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là dựa trên
quan hệ người bóc lột người. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã cướp của
nông dân, biến thành đồn điền nhà máy, xí nghiệp, biến họ thành công nhân
để dễ bề bóc lột, thu nhập của công nhân được tính bằng những đồng lương
rẻ mạt. Được coi là chế độ ‘‘cừu ăn thịt người”. Với những đặc trưng như
vậy, văn hóa chủ nghĩa tư bản, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản là một
nền văn hóa phản nhân văn, chà đạp lên nhân phẩm của con người… trong
xã hội tư bản, sự bất công, sự bất bình đẳng, mất dân chủ luôn diễn ra, đời
sống vật chất phân bố không đều, đời song tinh thần luôn căng thẳng, con
người phải sống trong nổi lo sợ. Một xã hội văn minh không có nghĩa là
quên đi vấn đề văn hóa, một góc độ nào đó xã hội tư bản chủ nghĩa có phần
văn minh về đời sông vật chất nhưng nhũng chuẩn mực giá tri văn hóa còn
kém nhân văn, trong khi đó xã hội phát triển phải là một xã hội đảm bảo
được cả hai yếu tố: vật chất đầy đủ và tinh thần thoải mái.
Ra đời đã khắc phục những hạn chế của các chế độ trước đó. Với tư
cách là hình thức phát triển cao nhất của nhân loại, văn hóa cộng sản chủ
nghĩa đã kế thừa một cách có chon lọc những giá trị văn hóa tích cực trong
truyền thống, đồng thời vượt qua những giới hạn của thời đại trước đó,
nhân lên, phát triển ở tầm cao nhưng tri thức mới đầy tính nhân văn, cao cả
V. I. Lênin viết: ‘‘văn hóa giai cấp vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó
không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản
phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hóa phải là sự phát triển
hợp quy luật của tổng số kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách
thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ của bọn quan liêu”
9
Ở chế độ xã hội chủ nghĩa không còn quan hệ người bóc lột người,
mọi người sống với nhau bình đẳng, tương trợ lẫn nhau, cùng nhau xây
dựng một xã hội đầy tình nhân ái. Vì vậy, văn hóa xã hội chủ nghĩa mang
tính hiện thực, nẩy sinh từ hoạt động thực tiễn và trường tồn cùng với sự
phát triển của lịch sử nhân loại.
Nhìn chung nhân loại đã bước qua những bước dài về văn hóa.
Những bước đó ghi lại dấu ấn tư tưởng của một lớp người, một giai cấp,
một nhóm xã hội nhất định, thích hợp với yêu cầu của thời đại. Hành trình
văn hóa của nhân loại là một sự phát triển khách quan, có tính quy luật, là
những nấc thang từ thấp đến cao. Chính trong hành trình này, văn hóa
không chỉ là kết quả của sự vận động vật chất và tinh thần mà còn trở thành
một khách thể nhận thức. Vì là khách thể nhận thức nên đã có nhiều quan
niệm khác nhau về văn hóa:
Thời cổ đại ở Trung Quốc, chuẩn mực xã hội dựa trên cơ sở Tam
cương, Ngũ thường vói những giá trị đạo đức và trí tuệ như ‘‘nhân”,
‘‘lễ” ,‘‘nghĩa”,‘‘trí”, ‘‘tín”… theo đó, con người phải thực hành ‘‘đức
nhân”, ‘‘đức lễ” và ‘‘chính danh, định phận” trong quan hệ cộng đồng. Ở
góc độ này ‘‘văn” được xem là cái hay, vẻ đẹp và “hóa” được hiểu là sự
cải biến, biến đổi. Vì vậy khái niệm văn hóa thời cổ đại Trung Quốc được
hiểu là sự cải biến, biến đổi, bồi đắp cho đẹp ra. Trong quẻ sơn hóa bí của
sách Chu dịch, khái niệm văn hóa như một qua trình gồm hai giai đoạn đã
được diễn đạt như sau: giai đoạn một xuất phát từ hai nguồn là kinh nghiệm
sống và quy luật tự nhiên để trở thành cái Văn của con người (gọi là nhân
văn). Giai đoạn hai là đem cái nhân văn ấy hóa thành cuộc sống (nhân văn
hóa thành thiên hạ). [6, 23].
Trong xã hội Phương Tây từ thời Phục Hưng và cận đại, khái niệm
văn hóa dung để nói đến lĩnh vực của hiện thực, lĩnh vực hoat động của con
người như một chủ thể tự do và sáng tạo. Các nhà triết học thời kỳ này tiếp
cận văn hóa bằng nhiều cách khác nhau trên quan điểm chủ nghĩa nhân
đạo, chủ nghĩa duy lý, quan điểm lịch sử hoặc chủ nghĩa tự nhiên. Song,
đều nhìn nhận văn hóa như sự tồn tại chân chính của con người phù hợp
với bản chất của chính mình.
10
Các nhà triết học duy tâm Đức đi tìm cơ sở của văn hóa trong lĩnh
vực thẩm mỹ, lĩnh vực tinh thần và trong triết học. Vấn đề văn hóa trong hệ
thống triết học của I. Kant, bước đầu đã được xem như một chỉnh thể :
‘‘ông chỉ gọi những gì đem lại phúc lợi cho con người - một hệ thống các
giá trị nhân đạo - là văn hóa”. Bộ ba phê phán: phê phán năng lực thuần
túy, năng lực thực tiễn và năng lực phán đoán là phản tư, là sự suy ngẫm về
con người theo chiều hướng giá trị của cái chân - thiện - mỹ. Từ đó ông đặt
ra và trả lời câu hỏi: con người hoạt động như thế nào trong lĩnh vực nhận
thức, trong hoạt động đạo đức, trong sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật? với
bộ ba đó, văn hóa được nhìn nhận như một chỉnh thể hưu cơ tạo nên con
người tự do sáng tạo như chủ thể đích thực của sự phát triển xã hội.
Ở Hêghen, những quy luật logic được xem như là quy lật của quá
trình chuyển hóa cái khách quan thành cái chủ quan và ngược lại, của quá
trình mà ở đó một phần của giới tự nhiên được chuyển hóa thành thân thể
văn hóa. Do vậy theo nhận định của Ts. Nguyễn Huy Hoàng, ‘‘Logic biện
chứng của Hêghen chính là logic văn hóa của nhân loại, là cái được gọi là
triết học văn hóa của ngày nay” [6, 73]. Theo Hêghen, con người trong hoạt
động hiện thực đã đối tượng hóa hình thức của tư duy, của hoạt động vào
thế giới các đồ vật; chuyển từ tư duy tự mình sang tư duy cho mình. Theo
đó, khái niệm do tư duy đưa ra ‘‘chính là chân lý, là hình thức của ý niệm
tuyệt đối, của tinh thần, của văn hóa”. Với góc độ này, Hêghen xem văn
hóa là phương thức hay hình thức hoạt động của con người.
Như vậy, văn hóa không chỉ là kết quả của hoạt động vật chất và tinh
thần của con người mà còn là khách thể của quá trình nhận thức. Song do
đứng trên lập trường khác nhau mà cách lý giải về văn hóa cũng khác nhau.
Quan điểm duy tâm cho rằng văn hóa là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối, của
đấng siêu nhiên nào đó sinh ra thông qua hoạt động của con người hoặc là
sản phẩm của ý chí của bậc đế vương, của anh hùng dân tộc, của lãnh tụ …
sinh ra. Quan điểm duy vật siêu hình xem văn hóa ở những góc độ khác
nhau thiếu tính toàn diện không đề cập đến tính kế thừa các giai đoạn phát
triển của lịch sử xã hội. Và từ việc tìm hiểu các quan điểm đó, có thể khẳng
định rằng chỉ có quan điểm duy vật biện chứng mới vạch rõ nguồn gốc, bản
chất, cũng như quá trình phát triển của văn hóa.
11
Như vậy, trước khi triết học Mác ra đời, các quan niệm về văn hóa
trước Mác đều thể hiện tính phiến diện. Các quan điểm duy tâm thần bí cho
rằng văn hóa là sản phẩm của ý niệm, ý niệm tuyệt đối. Các quan điểm
sùng bái cá nhân thì cho rằng văn hóa là sản phẩm ý chí của bậc quân
vương, anh hùng kiệt xuất, còn quần chúng nhân dân không phải là chủ thể
sản sinh ra văn hóa cũng không phải đối tượng của văn hóa mà chỉ là lực
lượng thụ động; hoạt đông vật chất không phải là cơ sở cho văn hóa nảy
sinh cũng không phải môi trường cho văn hóa tồn tại. Các quan điểm duy
vật của và duy vật tầm thường cũng nhìn nhân văn hóa một cách phiến
diện, hoặc coi trọng khía cạnh này hoặc đề cao khía cạnh khác của văn hóa
mà không thấy được văn hóa là một phạm trù có nội hàm và ngoại diên rất
rộng, bao gồm nhiều thành tố, có mặt trong tất cả các lĩnh vực kể cả đời
sống vật chất lẫn đời sống tinh thần.
C. Mác và Ph. Ăng - ghen, trong một số tác phẩm của mình đã không
trực tiếp bàn đến văn hóa như một lĩnh vực độc lập. Nhưng trong khi phân
tích mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội, tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, Mác đã gián tiếp thể hiện quan điểm về văn hóa. Theo đó văn
hóa được xem là một dạng hoạt động người và những thành tố văn hóa
thuộc về ý thức xã hội, bị quy định bởi tồn tại xã hội. Lao động cùng với
ngôn ngữ và tư duy là cơ sở hình thành văn hóa.
Trong ‘‘Luận cương về Feuerbach”, C. Mác đã chỉ ra tính siêu hình
máy móc và phiến diện của chủ nghĩa duy vật cũ trong việc xem xét mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Đó là mặt hoạt động của con người
không được nhìn nhận đúng đắn. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm lại đề cập
và phát triển mặt hoạt động của con người trong quan hệ với khách thể
nhưng theo hình thức duy tâm, thần bí. Từ sự phê phán đó, C. Mác va Ph.
Ăng - ghen đã chọn cho mình điểm xuất phát để nghiên cứu xã hội là hoạt
động sống của con người. ‘‘Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không
phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều, đó là những tiền đề
hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng mà thôi. Đó
là những cá thể hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn ũng như những hoạt
động của chính họ tạo ra”
12
Trong tác phẩm hệ tư tưởng Đức, hai ông còn khẳng định rằng,
‘‘người ta phải có kỹ năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng
muốn sống được trước hết phải có thức ăn thức uống, nhà ở, quần áo và
một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất. Hơn nữa đó là một hành vi lịch sử, một điệu kiện cơ
bản của mọi lịch sử mà người ta thực hiện hàng ngày, hàng giờ để duy trì
đời sống của con người”.
Từ sự phân tích mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, hoạt động và
đối tượng, C. Mác đã có cách nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người là “một thực thể song trùng” giữa ‘‘cái tự
nhiên” và “cái xã hội”. Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người,
nhưng yếu tố làm nên bản chất của con người chính là sự tồn tại người với
tư cách là ‘‘thực thể xã hội”.
Trong “Luận cương về Feuerbach”, Mác viết: ‘‘… bản chất con
người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ
xã hội”. Theo đó, C. Mác xem xét đời sống xã hội như một chỉnh thể hữu
cơ bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất con người,
trong đó sản xuất con người giữ vị trí trung tâm. Nếu hiểu văn hóa ở góc độ
sản xuất con người thì logic phát triển văn hóa là quá trình biểu thị mức độ
phát triển tự do và sáng tạo của con người trong lịch sử [11, 267].
Bên cạnh xem văn hóa như là hoạt động của con người trong qua
trình lịch sử, có nhiều quan điểm dựa trên lập trường triết học Mác - Lênin
đã xem văn hóa như sản phẩm chứa đựng giá trị có tác dụng thúc đẩy tiến
bộ xã hội. E. V. Bagaliubốpva trong tác phẩm ‘‘văn hóa và xã hội” đã xem
văn hóa không chi là sự sáng tạo của con người mà là sự tiến bộ xã hội.
Văn hóa là đặc trưng về bản chất của xã hội và sự phát triển của nó theo
con đường tiến bộ nhờ sự tham gia tích cực của mỗi cá thể vào quá trình
này. Sau đó, U. K. Ulêđốp tiếp tục khẳng định: văn hóa phải được nhìn
nhận trong cả hoạt động sáng tạo lẫn vận động tiến bộ của xã hội và con
người. Vì thế, văn hóa - đó không phải chính những hiện tượng vật chất
hay tinh thần mà là những đặc trưng của chúng từ quan điểm biến đổi và
phát triển. Bởi thế có thể xem xét văn hóa như chất lượng vốn sẵn có với
13
mọi hiện tượng xã hội và trước tiên với chính bản thân con người như chủ
thể của quá trình lịch sử…
Từ sự phân tích trên văn hóa được tiếp cận từ hai phương diện. Thứ
nhất, theo phương diện hoạt động: văn hóa biểu hiện phương thức tồn tại
của con người với đầy đủ bản chất của mình thông qua các hoạt động sống.
Do vậy, văn hóa hiện diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: lĩnh
vực kinh tế, chính trị - xã hội và tư duy. Thứ hai, theo phương diện giá trị:
văn hóa được xem như là sản phẩm của hoạt động con người. Văn hóa là
cái sáng tạo bởi con người trong sự khác biệt với cái được tạo nên bởi tự
nhiên.
Văn hóa là khái niệm có nội hàm rất rộng, liên quan đến đời sống vật
chất tinh thần của con người. Xuất phát từ nhiều cách tiếp cận, có nhưng
quan điểm và lý giải khác nhau về văn hóa.
- Ở góc độ miêu tả, nhà nghiên cứu văn hóa người Anh E. B. Thai -
Lơ cho rằng: ‘‘văn hóa là một phức thể bao gồm kiến thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, pháp luật. Tập quán và thói quen của con người, với tư
cách là thành viên xã hội”.
- Ở góc độ giá trị của văn hóa, nhà nghiên cứu A. Vê - bơ đã đặc biệt
đề cao giá trị của tự do. Giá trị của tự do nay không chỉ được đề cao vào
thời kỳ hiện đại mà ngay từ thời cổ đại đã được xem trọng.
- Ở góc độ di truyền, đề cao năng lực học tập của con người, R. Bê -
nê - đích chỉ ra rằng ‘‘văn hóa là lối sống mà con người học được, chứ
không phải là sự kế thừa sinh học”. Cũng đứng trên quan điểm này, Phôn -
Xôm luận giải ‘‘văn hóa là tất cả những gì do con người sản xuất ra: công
cụ, biểu trưng, thiết chế, hoạt động, các quan niệm, tín ngưỡng. Đó là
những sản phẩm nhân tạo, được truyền đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác”.
- Ở phương diện ứng xữ xã hội, F. Merill hiểu: ‘‘văn hóa là cách ứng
xử mà các thành viên trong xã hội học được”. Cũng tương tự như vậy, To -
mát - xơ coi ‘‘văn hóa là toan bộ giá trị vật chất và xã hội của nhóm người,
các thiết chế, phong tục và phản ứng trong cách ứng xử của họ”.
- Nhấn mạnh tính lịch sử, nhà nghiên cứu người Nga Malinốpxki
quan niệm “văn hóa là một phức thể hiện tượng của kế thừa xã hội, thực
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét