Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

diễn biến chất lượng nước mặt và những nguyên nhân làm thay đổi chất lượng nước trong hệ thống


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "diễn biến chất lượng nước mặt và những nguyên nhân làm thay đổi chất lượng nước trong hệ thống": http://123doc.vn/document/1043820-dien-bien-chat-luong-nuoc-mat-va-nhung-nguyen-nhan-lam-thay-doi-chat-luong-nuoc-trong-he-thong.htm


Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
Từ Thủ Dầu Một trở xuống thành phố Hồ Chí Minh ruộng đất bò nhiễm
phèn nặng vào sâu trong nội đòa và ở ven sông rạch lại bò nhiễm mặn nặng. Về
mùa mưa (tháng 9, 10) lại ngập úng. Do đó, ruộng đất dọc khu vực này bò hoang
hóa nhiều, năng suất cây trồng rất thấp.
• Khu vực ven sông Vàm Cỏ Đông
Toàn bộ ruộng đất vùng thấp dọc ven sông từ Châu Thành (Tây Ninh) đến
Lộc Giang (Long An) đều bò chua phèn nặng.
Đoạn từ Lộc Giang đến Xuân Khánh mặn kéo dài từ tháng 3 đến hết tháng
5, ruộng đất nằm dọc ven sông thì bò nhiễm mặn, vào sâu trong đồng thì bò chua
phèn. Đặc điểm của vùng này không chỉ chua phèn tại chỗ sinh ra mà còn chòu
ảnh hưởng chua phèn nặng của nước sông vào đầu mùa lũ từ thượng nguồn mang
xuống.
Như vậy công trình thủy lợi Dầu Tiếng ra đời đã cải thiện được hầu hết
những thiên tai đồng thời đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của
nhân dân trên lưu vực, vì vậy khi tìm hiểu về diễn biến chất lượng nước mặt cũng
như những nguyên nhân gây suy giảm chất lượng nước đề tài sẽ góp một phần
nhỏ vào nhiệm vụ bảo vệ công trình và phát triển kinh tế xã hội.
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 5
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
2.1.1 Vò trí đòa lý và ranh giới hành chánh
Hồ chứa nước Dầu Tiếng được xây dựng ở thượng lưu sông Sài Gòn, tại
ngã ba Dầu Tiếng, huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Dương).
Ranh giới hành chính : Lưu vực hồ Dầu Tiếng thuộc 3 tỉnh của Việt Nam là
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh và một phần thuộc Campuchia.
Tọa độ đòa lí : Trải dài từ 11
o
12’ tới 12
o
00’ vó độ Bắc và từ 116
o
30’ kinh độ
Đông.
Tổng diện tích lưu vực tới tuyến đập chính trên sông Sài Gòn là 2700 km
2
,
nằm trên đồi núi thấp với độ cao trung bình là 50 m so với mặt nước biển, độ cao
thấp dần theo hai hướng Tây Bắc, Đông Nam.
2.1.2 Đặc điểm đòa hình, đòa mạo
Lưu vực hồ Dầu Tiếng có dạng hình lòng chảo thoải dần về phía hai dòng
sông chính (sông Sài Gòn và sông Bà Hảo). Không có sự thay đổi lớn về mặt đòa
hình, độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 25 – 27 m. Phần thượng lưu của
lưu vực về phía Campuchia có cao độ so với mặt nước biển từ 50 – 100 m.
Đòa hình của tỉnh Tây Ninh có thể chia làm 4 hình thái chính :
- Vùng núi : nằm chủ yếu gần núi Bà Đen có diện tích 15 km
2
về phía Tây
– Tây Bắc của tỉnh, cao độ so với mặt nước biển từ 15 – 50 m, có dạng elip với
độ dốc thay đổi lớn từ 20 – 40%.
- Vùng đồi : Là một tập hợp các đồi có cao độ từ 50 – 80 m, có cấu tạo từ
cát hoặc bồi tích. Đòa hình này được hình thành từ xói mòn tích tụ. Các lớp đất
trên bề mặt bò xói mòn còn rất mỏng, tại các chân đồi đất bò tích tụ và tạo nên lớp
đất xốp hoặc đất dính ngập nước.
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 6
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
- Vùng đồi núi thấp : có cao độ từ 15 – 25 m. Kiểu đòa hình này xuất hiện
tại Nam Tân Biên và huyện Dương Minh Châu, Trảng Bàng, Gò Dầu và Bến
Cầu. Các đồi ở đây khá bằng phẳng, có đỉnh tròn và độ dốc rất thoải từ 2 – 3%.
- Vùng đồng bằng : là các bãi sông có cao độ từ 5 – 10 m so với mặt nước
biển, phân bố dọc theo các con sông có độ rộng từ 20 – 150 m và có chiều dài
đáng kể. Vì nằm trong thế đất thấp nên đất ở đây được tạo ra từ các vật liệu tích
tụ, chủ yếu là các bồi tích hiện đại.
Một phần của huyện Củ Chi thuộc thành phố Hồ Chí Minh nằm trong hệ
thống công trình Thủy Lợi là vùng đất thấp có cao độ từ 0.15 – 3.5 m so với mặt
nước biển.
2.1.3 Đặc điểm khí hậu
2.1.3.1 Chế độ nhiệt
Nhiệt độ bình quân trong lưu vực là 27
o
C, nhiệt độ lớn nhất là Tmax
39.38
o
C, nhiệt độ thấp nhất Tmin 12
o
C.
2.1.3.2 Chế độ ẩm
Độ ẩm trung bình trong khu vực là 77.3% và biến đổi theo mùa. Mùa mưa
độ ẩm trung bình 80 – 85%, mùa khô độ ẩm trung bình là : 60 – 70%.
2.1.3.3 Chế độ bốc hơi
Lượng bốc hơi đo bằng ống piche trong lưu vực trung bình hàng năm từ
876.6 – 1450 mm. Mùa khô nhiệt độ không khí cao trong khi độ ẩm thấp vì vậy
lượng bốc hơi rất cao, nhất là vào các tháng 2, 3, 4. Mùa mưa độ ẩm không khí
cao, trời mát hơn nên lượng bốc hơi giảm chỉ còn 70 – 100 mm.
2.1.3.4 Chế độ mưa
Chế độ mưa phân thành hai mùa, mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10, lượng
mưa chiếm 80 – 90% lượng mưa cả năm, mưa lớn nhất tập trung vào tháng 9, 10
hàng năm. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau hầu như không có
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 7
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
mưa, nếu có cũng chỉ là các trận mưa nhỏ rải rác. Lượng mưa mùa khô chiếm
khoảng 10 – 20% lượng mưa cả năm.
Đồ thò 1 : Lượng mưa trung bình năm
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
Phước Long
Dầu Tiếng
Phước Hòa
Nhà Bè
Thủ Đức
Thủ Dầu Một
Tây Ninh
Trạm quan trắc
Xtb (mm)
2.1.3.5 Chế độ gió
Hướng gió thay đổi theo mùa, gió mùa Đông Nam xuất hiện từ tháng 5 đến
tháng 11, áp suất cao, mang không khí ẩm từ vònh Thái Lan thổi vào lưu vực sông
Sài Gòn, sinh ra mưa nhiều. Gió mùa Đông Bắc từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau,
gió mang không khí khô và không sinh ra lượng mưa đáng kể trong lưu vực tạo ra
mùa khô.
2.1.3.6 Chế độ chiếu sáng
Lượng bức xạ mặt trời quanh năm khá dồi dào. Trung bình có 6 – 7 giờ
nắng mỗi ngày.
2.1.4 Đặc điểm thủy văn nguồn nước
Hệ thống thủy lợi Dầu Tiếng nằm trong lưu vực sông Sài Gòn và sông
Vàm Vỏ Đông là hai sông chính trong hệ thống sông Đồng Nai. Chế độ thủy văn
trong vùng chòu chi phối mạnh mẽ của chế độ mưa, chế độ thủy triều biển Đông
và sự điều tiết của Hồ Dầu Tiếng.
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 8
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
Lưu vực sông Sài Gòn có lượng mưa trung bình nhiều năm khoảng 1825
mm tương đương với modun dòng chảy khoảng 22 l/s-km
2
.
Lưu vực sông Vàm Cỏ Đông có lượng mưa trung bình nhiều năm khoảng
1650 mm tương đương với modun dòng chảy khoảng 20 l/s-km
2
.
Trên toàn lưu vực hệ thống sông Đồng Nai, dòng chảy mặt tại lưu vực
thuộc cửa Soài Rạp có tổng lượng nước bình quân khoảng 31 tỷ m
3
/năm. Tuy
nhiên chế độ mưa trong khu vực biến đổi theo mùa dẫn đến chế độ dòng chảy
trong các sông, suối cũng chia thành hai mùa lũ và mùa kiệt. Mùa lũ thường xuất
hiện từ tháng 6 đến tháng 7, dòng chảy lũ chiếm khoảng 70-75% dòng chảy năm.
Mùa kiệt bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau, dòng chảy mùa kiệt chỉ chiếm
25-30% dòng chảy năm.
Thủy triều biển Đông có dạng bán nhật triều, một ngày lên xuống 2 lần
với 2 lần đỉnh xấp xỉ nhau, thời gian xuất hiện 2 lần chân và đỉnh khoảng 12 giờ.
Vào mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 11; thời gian triều lên ngắn hơn thời gian triều
xuống; ngược lại, vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau, thời gian triều
lên dài hơn thời gian triều xuống. Tuy nhiên ảnh hưởng của thủy triều vào hệ
thống kênh rạch trong vùng lại phụ thuộc vào chế độ mưa trong khu vực và đặc
điểm đòa hình, độ dốc của từng con sông. Trên sông Sài Gòn, thủy triều tới hồ
Dầu Tiếng; trên sông Vàm Cỏ Đông, thủy triều truyền tới tận biên giới Việt Nam
– Campuchia.
• Sông Sài Gòn
Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng núi Lộc Ninh – Lộc Thạnh ở cao độ 200 –
250 m. Đoạn đầu chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam đến Lộc Thành hợp lưu
với suối Sanh Đôi, từ đây dòng chảy đổi theo hướng Tây Bắc – Đông Nam cho tới
cửa ra tại Nhà Bè trên sông Đồng Nai. Tổng diện tích lưu vực là 4500 km
2
, sông
dài 280 km, chiều dài tính đến hồ Dầu Tiếng là 135 km. Lưu vực hồ Dầu Tiếng
bao trùm phần thượng nguồn sông Sài Gòn với chiều dài 135 km, dung tích hàng
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 9
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
năm hàng tỷ m
3
là nguồn cung cấp nước tưới cho tỉnh Tây Ninh, đẩy mặn cho hạ
du sông Sài Gòn và cung cấp một phần nước sinh hoạt cho tỉnh Long An, thành
phố Hồ Chí Minh.
• Sông Vàm Cỏ Đông
Sông Vàm Cỏ Đông có diện tích lưu vực rộng 6300 km
2
, chiều dài sông
khoảng 280 km, bắt nguồn từ vùng đồi núi thấp Campuchia ở cao độ khoảng 20
m, chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam tới hợp lưu với sông Vàm Cỏ Tây tại
Cầu Nổi sau đó đổ ra sông Nhà Bè tại vò trí cách Soài Rạp 15 km. Sông Vàm Cỏ
Đông chòu tác đông mạnh của thủy triều biển Đông.
Tác động của thủy triều tạo thuận lợi để tưới tự chảy cho những dải đất
canh tác ven sông. Bên cạnh đó lại tạo ra các vùng giáp nước gây chua, ngập úng
cục bộ như khu vực kênh Thày Cai, kênh An Hạ.
• Hồ Dầu Tiếng
Hồ lấy nước từ một số sông, suối bao gồm cả dòng Nước Đục và Krai chảy
từ Campuchia hình thành nên sông Thala các dòng suối Chàm, Ngô, Xa Cát và
Lap chảy vào hồ từ tỉnh Bình Dương.
Vùng lưu vực Dầu Tiếng có hai mùa rõ rệt, mùa lũ bắt đầu thường chậm
hơn từ 1 đến 2 tháng so với các nơi khác và mùa lũ cũng kết thúc muộn hơn. Có
70 – 80% tổng lượng dòng chảy năm tập trung vào 3 – 5 tháng mùa mưa. Chỉ có
từ 20 – 30 % lượng dòng chảy trong năm tập trung vào mùa kiệt. Modun dòng
chảy năm đạt từ 20 – 25 l/s – km
2
, và như vậy là nhỏ hơn nhiều so với một số hồ
khác như hồ Kẻ Gỗ đạt từ 40 – 50 l/s – km
2
; điều đó chứng tỏ là tiềm năng nguồn
nước của khu vực này không lớn.
Nước từ Hồ Dầu Tiếng xả theo 4 hướng : kênh chính Đông, kênh chính
Tây, kênh Tân Hưng và xả trực tiếp xuống sông Sài Gòn qua đập tràn.
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 10
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
2.1.5 Đặc điểm đòa chất
Lưu vực sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông được hình thành bởi trầm
tích của kỉ đệ tứ, gồm các vật liệu bồi lắng từ sét đến sỏi và các trầm tích đệ tứ
Neogene tạo thành bởi đá trầm tích và bùn.
Các vật liệu gốc của đất hoặc là thuộc bồi tích cổ (thềm bồi lắng) hoặc là
bồi tích mới. Chỉ có các vết lộ là thuộc đất đá đồi ở Tân Biên (Tây Bắc tỉnh Tây
Ninh) và hồ chứa Dầu Tiếng.
Lớp bồi tích cổ dốc về phía Tây Nam ngang qua các bậc thềm nằm có độ
cao từ trên 60 m so với mực nước biển ở phía Đông Bắc tới 1 m trên mực nước
biển ở Long An, tại nơi đó nó bò ngập dưới tầng bồi tích mới.
Tại Bình Dương thành phần gốc chiếm chủ yếu là cát trầm tích từ Thượng
đến Trung Kỷ Pleistocene trải rộng đến phía Tây Tân Biên (Tây Ninh) và Thủ
Dầu Một (Nam Bình Dương). Vật liệu cổ nhất (upper Plllocene) – cát thô và mòn
được tìm thấy ở Chơn Thành. Gần đó là một vùng thuộc lớp bồi tích hạ
Pleistocene bao gồm sét và đá sỏi.
Cát và sét thuộc kỷ Upper Pleistonece (11000 năm) tạo nên các bậc thềm
cao hơn từ phía Tây Châu Thành, Bến Cầu và Đức Hòa. Các bậc thềm thấp và
thung lũng được tạo bởi sét và cát thuộc kỷ Holocene cổ (8000 năm).
Bồi tích trẻ của kỷ Holocene trẻ (5000 năm) là lớp sét mòn có độ cao
khoảng 2 m so với mặt nước biển trải rộng từ phía thượng lưu sông Sài Gòn tới
sông Vàm Cỏ Đông.
2.1.6 Đặc điểm thổ nhưỡng
2.1.6.1 Đất thềm cao
Là loại đất xám có thành phần chủ yếu là bùn và tro nặng lẫn một ít sét.
Loại đất này có thể tìm thấy ở Tân Châu (Tây Ninh), Dầu Tiếng (Bình Dương),
Đức Hòa (Long An), thượng và trung lưu Vàm Cỏ Đông (Châu Thành thuộc tỉnh
Tây Ninh tới Long An); thành phần cơ giới chủ yếu là cát pha sét, độ dày từ 50 –
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 11
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
100 cm. Loại đất này có thể sử dụng để trồng lúa, hoa màu và mía có năng suất
cao nếu cung cấp đủ nước tưới và chăm bón tốt.
2.1.6.2 Đất phù sa mới
Thành phần chủ yếu là sét (thường là sét nặng) thuộc các huyện Trảng
Bàng và Đức Huệ. Độ dày lớp sét trên 100 cm. Đây là đất dinh dưỡng, có khả
năng giữ nước tốt (hệ số thấm k

1 mm/ngày), thích hợp cho trồng lúa và hoa
màu. Một vấn đề của loại đất này là sự có mặt của axit sunphat ở dạng khô.
Trong điều kiện ngập úng và yếm khí quặng sunphit sắt (FeS
2
) tiềm tàng trong
đất trong điều kiện khử và sự oxy hóa không xảy ra. Nếu trong điều kiện khô
quặng sunfit sẽ bò oxy hóa trở thành sunphat và tạo ra axit nhập vào đất khi mùa
mưa tới.
2.1.7 Hiện trạng sử dụng đất trên lưu vực hồ Dầu Tiếng
Bảng 2 : Hiện trạng sử dụng đất trên lưu vực hồ Dầu Tiếng.
STT Loại hình sử dụng đất Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
1 Đất trồng cây hàng năm 44416.35 19.82
2 Đất trồng cây lâu năm 77557.14 34.60
3 Đất có mặt nước 29567.92 13.19
4 Đất rừng 62229.34 27.76
5 Đất chuyên dùng 7506.84 3.35
6 Đất chưa sử dụng 2870.22 1.28
Tổng 224147.80 100
(Nguồn : Viện khoa học thủy lợi miền Nam)
2.1.8 Đặc điểm tài nguyên sinh vật
2.1.8.1 Sinh thái cạn và đa dạng sinh học
Hệ thống thủy lợi Dầu Tiếng nằm vắt ngang qua 4 trong 16 vùng sinh thái
của Việt Nam. Bao gồm :
- Tây Ninh và phía trên của thành phồ Hồ Chí Minh nằm trong vùng sinh
thái rừng nhiệt đới phía Đông Đông Dương.
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 12
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
- Vùng bờ biển thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng sinh thái rừng ngập
mặn vònh Thái Lan.
- Tỉnh Bình Dương nằm giữa vùng sinh thái rừng nhiệt đới phía Đông Đông
Dương và vùng sinh thái rừng ven biển miền Nam Việt Nam.
- Tỉnh Long An nằm trong vùng sinh thái đầm lầy than bùn Tông Lê Sáp
Mê Kông.
Tuy hệ sinh thái rừng trong khu vực vô cùng phong phú và đa dạng nhưng
hiện nay độ che phủ của rừng đã giảm xuống liên tục, trước năm 1945 độ che phủ
của rừng trong lưu vực Dầu Tiếng là 45%, nay giảm xuống chỉ còn 18%. Những
nguyên nhân quan trọng của việc phá rừng đó là phá hoại xảy ra trong chiến
tranh chống Mỹ, du canh, khai thác gỗ quá mức, chuyển đổi đất sang mục đích
nông nghiệp.
Những khu vực nhỏ rừng nguyên sinh và thứ sinh vẫn tồn tại ở Tây Nam
tỉnh Tây Ninh.
Bảng 3 : Diện tích rừng trong khu vực công trình.
Tỉnh
Tổng diện tích
(ha)
Diện tích rừng
tự nhiên (ha)
Rừng đặc dụng
(ha)
Tây Ninh 392417 50282 22949
Bình Dương 205326 3228 2928
Long An 443454 0 0
TP. Hồ Chí Minh 193191 736 0
(Nguồn : Đánh giá tác động môi trường dự án hỗ trợ thủy lợi Việt Nam, 2003)
2.1.8.2 Nguồn tài nguyên thủy sản
a) Các loài cá
Trong lòng hồ Dầu Tiếng có 54 loài cá thuộc 9 bộ, 19 họ khác nhau và 2
loài tôm thuộc họ tôm càng Palaemonidae.
• Nhóm cá đen (nhóm cá đồng)
Đây là nhóm cá điển hình bao gồm các loài cá kinh tế chính như : cá lóc
(Channa striata), cá rô đồng (Anabas testudineus), cá trê trắng (Clarias
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 13
Đồ án tốt nghiệp GVHD : PGS - TS Hoàng Hưng
batrachus), cá trê vàng (Clarias macrocephalus). Nhóm cá đồng phát triển phù
hợp ở đây cả vòng đời chúng sinh sống, sinh sản và phát triển vì vậy cần chú ý
bảo vệ các bãi đẻ của chúng.
• Nhóm cá trắng
Nhóm này chủ yếu thuộc họ cá chép Cyprinidae và họ cá leo siluridae,
điển hình một số loài có giá trò kinh tế cao như : cá cóc, cá duồng, cá mè vinh, cá
mè lúi, cá leo, cá trèn bầu
• Nhóm kích thước lớn
Nhóm kích thước lớn : cá lớn trong hồ Dầu Tiếng rất hiếm, hiện nay chỉ
gặp nhiều nhất là loài cá còm (Chitalaornata).
Nhóm kích thước trung bình : gồm các loài cá chép Cyrinidae, siluridae,
Clariidae.
Nhóm kích thước bé gồm :
- Nhóm cá cơm : gồm cá cơm sông (Coriaca laciniata), cá cơm trích
(Clupeioides borneensis).
- Nhóm lòng tong : lòng tong sắt (Esomus metallicus), lòng tong mại
(Raboramyersi), cá đỏ đuôi (Rasbora borapetensis).
• Nhóm cá nuôi
Trog hồ Dầu Tiếng có cá Điêu Hồng là đối tượng nuôi chính, một số ít hộ
nuôi cá Lăng.
b) Biến động thành phần trước và sau khi hình thành hồ
Hồ Dầu Tiếng được hình thành từ phần thượng lưu của sông Sài Gòn, cơ
cấu thành phần loài trước đây thuộc khu hệ cá sông với các loài cá có nguồn gốc
nội đòa và nước biển di cư vào theo mùa. Sau năm 1986, hồ được hình thành làm
thay đổi lớn khu hệ sinh thái của cá từ hệ sinh thái cá sông sang hệ sinh thái cá
hồ chứa với nhiều đặc trưng riêng. Sự thay đổi này làm nhiều loài cá mất đi cũng
như xuất hiện thêm nhiều loài cá đặc trưng cho khu vực hồ chứa.
SVTH : Phạm Thò Hải Yến 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét