LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "MỘT số PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG nói của SV năm THỨ NHẤT ": http://123doc.vn/document/564040-mot-so-phuong-phap-nang-cao-kha-nang-noi-cua-sv-nam-thu-nhat.htm
thực tế thì khi mới học một ngoại ngữ ở trình độ sơ cấp thì sẽ có một khoảng cách
tương đối giữa nội dung mình muốn nói và nội dung mình có thể nói được bằng ngôn
ngữ đó, tức là sẽ có khoảng cách giữa quá trình
①
với quá trình
②
và
③
.
Mục tiêu của nghiên cứu này là đề xuất ra một số phương pháp nâng cao khả
năng hội thoại cho sinh viên năm thứ nhất, hay nói cách khác là sẽ tìm ra một số
phương pháp giúp giảm thiểu khoảng cách giữa quá trình
①
với quá trình
②
và
③
trong khi thực hiện hành vi “Nói” của sinh viên.
2. Đặc điểm quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe.
Thông thường khi thực hiện hành vi “Nói” sẽ phải có hai bên tham gia vào
quá trình giao tiếp, đó là người nói và người nghe. Hay nói cách khác, hành vi “Nói”
có vai trò thực hiện việc giao tiếp giữa người nói và người nghe. Vậy quá trình giao
tiếp giữa người nói và người nghe mang những đặc điểm gì?
Trước khi bắt đầu tiến hành hội thoại với một ai đó, tức là trước khi thực hiện hành
vi “Nói” chúng ta phải suy nghĩ xem mình cần nói nội dung gì với người nghe, và nói
để làm gì. Như vậy, để thực hiện quá trình giao tiếp, trước hết cần có mục đích giao
tiếp. Đây chính là động cơ giúp chúng ta có thể bắt đầu một hành vi “Nói” hay một
cuộc giao tiếp.
Ngoài ra, trong quá trình giao tiếp, nhất thiết sẽ xảy ra các câu hỏi và câu trả
lời về một vấn đề nào đó. Cụ thể, người nói sẽ hỏi người nghe những thông tin mà
người đó chưa biết và người nghe sẽ trả lời. Như vậy hành động giao tiếp sẽ được
thực hiện khi giữa người nói và người nghe tồn tại một khoảng cách thông tin
(information gap) nào đó. Khoảng cách giao tiếp ở đây có thể hiểu là người nói chưa
biết về một thông tin nhưng người nghe đã biết, hoặc là người nói truyền tải cho
người nghe một thông tin mà mình đã biết
Không phải hội thoại nào cũng có nội dung như nhau. Ngoài ra, rất có thể cùng một
nội dung truyền tải nhưng tùy vào thành phần tham gia hội thoại (người nói và người
nghe) khác nhau thì cách thể hiện nội dung đó cũng khác nhau. Hay nói cách khác
người tham gia hội thoại có những quyền như sau:
Thứ nhất, đó là quyền được quyết định nội dung mình sẽ nói trong hội thoại.
Thứ hai, với nội dung đã quyết định thì người tham gia hội thoại có quyền
chọn cho mình cách biểu đạt, từ ngữ thể hiện mà mình thích. Nói tóm lại, những
người tham gia hội thoại có quyền được lựa chọn nội dung và lựa chọn cách truyền
tải nội dung muốn nói.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thì sinh viên gần như không có quyền lựa
chọn khi thực hiện hội thoại vì các giáo viên thường đã cho sẵn mẫu câu và từ vựng
yêu cầu sinh viên luyện nói để quen với mẫu câu đó (kuchinarashi).
Cuối cùng, sẽ không gọi là hội thoại nếu như chỉ có một phía chuyên nói và một phía
5
chuyên nghe. Nói cách khác, người tham gia hội thoại sẽ luân phiên vai trò của người
nói và người nghe trong suốt quá trình hội thoại. Tức là người nói phải luôn chú ý
phản ứng của phía người nghe để tiếp tục hội thoại và điều chỉnh hành vi ngôn ngữ
sao cho phù hợp. Ngược lại, người nghe cũng phải chú ý đến nội dung đang được nói
để có cách đối đáp lại sao cho thích hợp. Tóm lại các bên tham gia hội thoại phải thể
hiện phản ứng của mình trước các hành vi ngôn ngữ được thực hiện trong suốt quá
trình hội thoại.
3. Những năng lực cần thiết trong quá trình giao tiếp
Trước những năm 1960, việc học ngôn ngữ thường chú ý đến năng lực ngữ pháp.
Tuy nhiên từ sau thập niên 1970 trở đi thì khả năng vận dụng ngôn ngữ được chú ý
hơn trước rất nhiều. Nhà ngôn ngữ học Hymes (1972) đã định nghĩa “Những năng
lực liên quan đến năng lực sử dụng ngôn ngữ, ví dụ như nói với ai, nói như thế nào,
nói vào lúc nào…gọi là “năng lực giao tiếp”. Sau đó, tác giả Canal (1983) đã phân
chia năng lực thành 4 kỹ năng cụ thể gồm có “năng lực ngữ pháp”, “ năng lực ngôn
ngữ xã hội”, “năng lực đàm thoại”, “ năng lực chiến lược”.
3.1 Năng lực ngữ pháp
Năng lực ngữ pháp là những kiến thức liên quan đến kiến thức ngữ pháp như các quy
tắc ngữ pháp, từ vựng, phát âm, cách viết…Năng lực ngữ pháp vốn rất được chú
trọng trong việc giáo dục ngoại ngữ từ trước đến nay.
3.2 Năng lực ngôn ngữ xã hội
Khi sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là khi sử dụng ngoại ngữ, chỉ có kiến thức về ngữ
pháp thôi thì chưa đủ. Một điều rất quan trọng trong khi sử dụng ngôn ngữ đó là khi
muốn “nói gì, với ai, trong trường hợp như thế nào, dùng những cách diễn đạt ra
sao…” cần phỉ chú ý đến những quy tắc vốn có về mặt xã hội và văn hóa của đất
nước đang nói thứ ngôn ngữ đó. Việc đảm bảo các quy tắc đó trong khi sử dụng ngôn
ngữ được gọi là “năng lực ngôn ngữ xã hội”. Năng lực ngôn ngữ xã hội là một trong
những yếu tố đảm bảo cho quá trình giao tiếp diễn ra suôn sẻ.
Hãy xem ví dụ sau đây:
場面:大教の教究室で
(Tại phòng nghiên cứu của giáo sư tại trường đại học)
教生:「先生、先生の論文、見ましたよ。すばらしいですね。すごいです
ね」
Sinh viên: “Thầy giáo ơi, em đã xem Luận văn của thầy. thật là hay, tuyệt thật đấy”.
先生:「...」
Thầy giáo: “……………………”
Trong đoan hội thoại trên, sinh viên khen Luận văn của thầy giáo
「すごい
6
ですね」
. Người Nhật không bao giờ thể hiện sự đánh giá của mình đối với những gì
liên quan đến cấp trên, thấy giáo… Ngoài ra khi nói chuyện với thầy cô giáo hoặc
cấp trên của mình thì cần phải dùng kính ngữ. Đoạn hội thoại trong ví dụ trên đã
không thỏa mãn hai điều kiện đó. Nói một cách khác, người sinh viên trong đoạn hội
thoại này không có năng lực về ngôn ngữ xã hội, không biết một số quy tắc hành xử.
3.3 Năng lực đàm thoại
Hội thoại là tập hợp rất nhiều câu có ý nghĩa và theo một trình tự nào đó. Tập hợp
những câu như vậy tạo thành một cuộc đàm thoại hoàn chỉnh. Năng lực đàm thoại là
năng lực biết cấu trúc một đoạn hội thoại hoàn chỉnh nhằm đạt mục đích giao tiếp.
Thông thường hội thoại tiếng Nhật thường gồm 3 phần là “Phần mở đầu”, “phần nội
dung chính”, và “phần kết thúc”.
Hãy thử so sánh hai đoạn hội thoại sau đây:
Ví dụ 1:
A:
あのう、午後は用事あありますので、早く教らせていただきたいんですが。
À, chiều nay tôi có việc, cho phép tôi về sớm nhé.
B:
あ、そうですか。いいですよ。
Thế à, ừ, được thôi.
Ví dụ 2:
A:
あのう、すみません。
Xin lỗi……….
B:
どうしたんですか。
Có chuyện gì thế?
A:
教は、午後、用事がありますので、今日は早く教らせていただけませんか。
À, thật ra là chiều nay tôi có việc, cho phép tôi về sớm có được không?.
B:
あ、そうですか。いいですよ。
Thế à, ừ, được thôi.
A:
忙しいところ、すみません。
Xin lỗi đã làm phiền trong lúc anh đang bận rộn thế này.
B:
いいえ。
Không có gì.
Có thể thấy rằng cả hai đoạn hội thoại trên đều có cùng một mục đích là A muốn B
7
cho phép về sớm. Tuy nhiên đoạn hội thoại ở ví dụ 2 tự nhiên hơn. Nguyên nhân là vì
đoạn hội thoại trong ví dụ B có đầy đủ 3 phần của một hội thoại hoàn chỉnh, đó là
“phần mở đầu”, “phần chính”, và “phần kết luận”. Cụ thể như sau:
A:
あのう、すみません。
B:
どうしたんですか。
→
Phần mở đầu
A:
教は、午後、用事がありますので、今日は早く教らせていただけませんか。
B:
あ、そうですか。いいですよ。
→
Phần nội dung chính
A:
忙しいところ、すみません。
B:
いいえ。
→
Phần kết luận
3.4 Năng lực chiến lược
Trong khi thực hiện quá trình giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp bằng ngoại ngữ sẽ có
trường hợp bạn gặp khó khăn, chẳng hạn như tự nhiên bạn quên không nhớ ra từ
vựng mình định diễn đạt, không hiểu đối tác đang nói gì, đối tác không hiểu được
những điều bạn muốn truyền đạt… Trong những trường hợp như thế này, để cuộc
giao tiếp tiếp tục diễn ra suôn sẻ thì cần phải có “năng lực chiến lược” trong giao
tiếp.
Năng lực chiến lược là năng lực xử lý tình huống trong khi giao tiếp, là cách dùng
nhiều phương pháp thể hiện khác nhau nhằm đạt được mục đích giao tiếp. Ngay cả
trong trường hợp bạn chưa có đủ năng lực ngôn ngữ xã hội, năng lực ngữ pháp nếu
có năng lực chiến lược tốt bạn vẫn có cách để đạt được mục đích giao tiếp. Chính vì
vậy năng lực chiến lược càng đặc biệt quan trọng trong giai đoạn sơ cấp (khi mà vốn
kiến thức từ vựng và ngữ pháp…còn chưa nhiều).
Như vậy để nâng cao khả năng nói của sinh viên năm thứ nhất, giáo viên cần chú ý
có những biện pháp luyện tập toàn diện nhằm giúp sinh viên phát huy cân bằng tất cả
các năng lực nói trên.
4 Tính cần thiết của hành vi “Nói” trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ
Chúng ta đều biết “Nghe”, “Nói”, “Đọc”, “Viết” là 4 kỹ năng cơ bản và rất
quan trọng trong giao tiếp ngôn ngữ cũng như trong quá trình dạy và học ngôn ngữ.
Trong đó mỗi kỹ năng có những đặc trưng riêng, nhưng cả 4 kỹ năng là không thể
tách rời trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ.
Có thể thấy khả năng “nói” là rất quan trọng và được coi là thước đo độ
thành thục trong khả năng ngoại ngữ cũng như ngôn ngữ của một người. Chính vì
8
vậy, trong quá trình dạy và học ngoại ngữ, người ta rất coi trọng việc đào tạo cho
người học có khả năng nói sao cho có thể vừa tai được mọi đối tượng người nghe từ
trẻ đến già. Việc dạy và học tiếng Nhật đương nhiên không phải là ngoại lệ.
Mặt khác, hành vi “nói” sẽ gây ấn tượng rất sâu đậm đối với người nghe.
Nếu nói một cách trôi chảy, thích hợp với hoàn cảnh sẽ tạo ấn tượng rất tốt đối với
người nghe, thậm chí có giúp ích rất nhiều trong quá trình giao tiếp, cộng tác sau này.
Còn ngược lại nếu có những lời nói không thích hợp với hoàn cảnh (kể cả không cố
tình), hoặc nói không trôi chảy sẽ gây ấn tượng xấu, ảnh hưởng xấu đến quá trình
giao tiếp, thậm chí là ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người với người.
Tùy vào mục đích nói và kỹ năng yêu cầu khi thực hiện mục đích nói mà hành vi
“nói” được chia thành hai loại như sau:
* Đối thoại (Dialogue)
Đây là hành vi nói mà trong quá trình giao tiếp, người tham gia giao tiếp
hoán đổi liên tục giữa vai trò của người nói và người nghe. Để thực hiện loại hành vi
giao tiếp này thì ngoài kỹ năng “nói” cần thiết phải có kỹ năng “nghe” những điều
đối phương đang nói để có sự đối đáp cho phù hợp. Hình thức giao tiếp này có thể
đưa đến những hội thoại đầy tính sáng tạo và có nội dung triển khai phong phú tùy
vào sự ứng đáp của những người tham gia. Có thể chia thành hai loại chủ yếu như
sau:
+ Nghị luận, thảo luận: Hai bên cùng đưa ra căn cứ, ý kiến để tranh luận về
một vấn đề nào đó.
+Hội thoại theo kỹ năng: Nhằm đạt được ý đồ giao tiếp của người nói. Hội
thoại được xây dựng dựa trên cơ sở những mục đích định trước như nhờ vả, cảm ơn,
xin lỗi, xin phép…Trong phạm vi của trình độ sơ cấp thì chủ yếu tập trung hội thoại
theo kỹ năng này. Cụ thể, cần cho sinh viên luyện tập hội thoại theo từng nội dung
cho sẵn như nhờ vả, cảm ơn, xin lỗi, xin phép…hoặc luyện tập những hội thoại nhỏ
để có thể dùng thành thục những mẫu câu đã học.
* Độc thoại (Monologue)
Đây là hành vi giao tiếp được thực hiện dưới hình thức một người nói còn
những người khác nghe. Như vậy người nói sẽ thực hiện được hành vi nói từ đầu đến
cuối quá trình giao tiếp, có thể kiểm soát hoàn toàn nội dung mình sẽ nói, và không
có sự hoán đổi vai trò giữa người nói và người nghe. Chính vì vậy người nói sẽ phải
cố gắng sao cho nội dung mình muốn nói được truyền đạt tới người nghe một cách
dễ hiểu và thuyết phục nhất. Có thể chia thành hai loại chủ yếu như sau:
+Hùng biện, diễn thuyết: người nói sẽ nêu ra chủ trương hoặc ý kiến của
mình về một vấn đề nào đó. Kiểu độc thoại này đòi hỏi người nói phải có khả năng lý
luận và khả năng thuyết phục người khác. Trong phạm vi của trình độ sơ cấp thì tập
trung vào việc luyện tập cho sinh viên phát biểu, hùng biện về những chủ đề đơn
9
giản, thân thuộc, rèn luyện kỹ năng phát biểu một cách dễ hiểu và có sức thuyết phục
với người nghe. Thời gian cho mỗi bài hùng biện có thể kéo dài từ một đến năm
phút.
+ Giải thích, phát biểu: người nói sẽ giải thích về một vấn đề hoặc đưa ra kết
luận về một vấn đề đang được tranh cãi nào đó. Kiểu độc thoại này đòi hỏi người nói
phải biết quan sát phản ứng và dành được sự đồng tình của người nghe trong khi
đang nói. Trong tiếng Nhật kiểu độc thoại này hay xuất hiện trong những cuộc họp.
5. Mục tiêu của hành vi “Nói” trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ
Trong phần 4, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của hành vi “nói” trong
giao tiếp ngôn ngữ. Còn trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu mục tiêu của hành vi
“Nói” trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ.
Như đã nêu trong phần định nghĩa, hành vi “nói” bao gồm 3 quá trình, từ khi
nghĩ ra nội dung mình muốn nói, lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ thích hợp, cho
đến khi thể hiện được nội dung đó bằng lời nói. Như vậy có thể thấy mục tiêu của
hành vi “Nói” chính là làm thế nào để thể hiện một cách hiệu quả nhất những điều
mà mình muốn truyền tải đến người nghe.
Ngoài ra, khi “nói” có nghĩa là chúng ta đang tham gia quá trình giao tiếp.
Như vậy, nếu chỉ truyền tải được những điều mình muốn nói tới người nghe không
thôi thì chưa đủ. Để quá trình giao tiếp diễn ra một cách có hiệu quả, còn cần phải có
kỹ năng nghe hiểu để có thể nắm bắt được tâm lý và diễn biến tình cảm của người
nghe. Nói tóm lại, mục tiêu của hành vi “Nói” trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ là
biết cách tìm các phương tiện ngôn ngữ thích hợp để truyền đạt một cách hiệu quả
nhất những điều mình muốn nói, và đồng thời nắm bắt chính xác nội dung đối
phương muốn truyền tải tới mình.
6. Vai trò của kỹ năng “nói” trong việc dạy và học ngoại ngữ.
Bốn kỹ năng quan trọng trong giảng dạy và học tập bộ môn ngoại ngữ là
“nghe”, “nói”, “đọc”, “viết”. Trong đó kỹ năng “nói” có vai trò hết sức quan trọng.
Chúng ta đều biết việc học ngoại ngữ là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự
luyện tập thường xuyên và liên tục. Trong đó kỹ năng “nói” giúp người học có thể
thực hành được những kiến thức về từ vựng, về mẫu câu được học từ các kỹ năng
khác, để vận dụng từng bước, khiến người học có thể tiến hành giao tiếp bằng ngoại
ngữ mà mình được học với những người khác cùng biết ngoại ngữ đó, hoặc với
người bản xứ, giúp chúng ta đạt được các hiệu quả giao tiếp như mong muốn trong
cuộc sống hàng ngày cũng như trong công việc. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa
như hiện nay, giao tiếp bằng ngoại ngữ là một kỹ năng không thể thiếu của con người
hiện đại.
Với sinh viên ở trình độ sơ cấp, những kiến thức học được còn hạn chế về
nhiều mặt, thì kỹ năng “nói” yêu cầu người học phải vận dụng được những kiến thức
10
đã học để giao tiếp ở mức độ sơ cấp. Thực tế là có rất nhiều sinh viên ngoại ngữ, mặc
dù rất giỏi các kiến thức về ngữ pháp, đọc, viết nhưng lại rất kém và thiếu tự tin khi
giao tiếp chỉ vì không áp dụng được các kiến thức ngoại ngữ đã được học trong khi
giao tiếp. Việc nói được những mẫu câu đã học là một điều tưởng chừng như đơn
giản song trên thực tế lại không đơn giản chút nào.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP
MÔN “NÓI” CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
11
CHUYÊN NGÀNH TIẾNG NHẬT ĐHNN-ĐHQGHN
1. Thực trạng việc giảng dạy hội thoại cho sinh viên năm thứ nhất chuyên
ngành tiếng Nhật.
Hiện nay, sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành tiếng Nhật được chia thành 5
lớp, học chương trình được chỉ định như nhau. Tiến hành phỏng vấn các giáo viên
đang phụ trách môn tiếng Nhật tổng hợp năm thứ nhất thì được biết, giờ học nói
được thực hiện sau khi sinh viên đã học mẫu câu và từ vựng của từng bài với thời
lượng 2 tiết 1 tuần. Môn “Nói” của mỗi lớp do giáo viên chủ nhiệm của lớp đó phụ
trách, ngoài ra sẽ có thêm 1 tiết bổ trợ do chuyên gia người Nhật phụ trách. Tuy
nhiên đến năm học này thì 2 tiết của môn “Nói” sẽ do chuyên gia Nhật Bản phụ trách
ngay từ đầu. Đây là một biện pháp rất hữu hiệu giúp sinh viên có thêm hứng thú
trong khi thực hành nói thứ tiếng mà mình đang được học và sẽ có điều kiện được
sửa phát âm cho giống với người bản ngữ.
Môn Tiếng Nhật tổng hợp của cùng một lớp được phân công đan xen cho
nhiều giáo viên. Môn chữ Hán do thời lượng tương đối ít nên do một giáo viên phụ
trách. Môn Nói và bổ trợ nói do chuyên gia người Nhật đảm nhiệm. Môn nghe do
giáo viên người Việt đảm nhiệm.
1.1 Giáo trình sử dụng trong
môn hội thoại
Hiện nay, giáo trình được sử dụng cho
môn Hội thoại nằm trong bộ sách “Tiếng
Nhật sơ cấp” do trường Đại Học Ngoại
Ngữ Tokyo biên soạn. Đây là một giáo
trình hay, kiến thức chuyên sâu nhưng rất
khó, đòi hỏi giáo viên phải có nhiều thời
gian nghiên cứu và dành tâm huyết, giáo
trình này được áp dụng đến nay đã là năm
thứ 3, nên đã có khá nhiều đổi mới và cải
tiến, rút kinh nghiệm trong công tác giảng
dạy. Hơn nữa giáo trình này đã có phiên
bản trên internet nên sinh viên có thể tự học và luyện tập tại nhà.
Được biết ngoài giáo trình chính kể trên thì các giáo viên dạy môn “Nói” của
sinh viên năm thứ nhất còn thường xuyên tham khảo thêm của các giáo trình tiếng
Nhật sơ cấp khác cũng đang được sử dụng khá rộng rãi như “genki na Nihongo”,
“Minna no Nihongo”, “shin Nihongo bunka”…
1.2 Cơ cấu bài học trong giáo trình
Sinh viên năm thứ nhất dùng Bộ giáo trình “tiếng Nhật sơ cấp” do trường đại
12
học Ngoại ngữ Tokyo biên soạn. Thời lượng các giờ học tiếng Nhật trong 1 tuần như
trong bảng dưới đây.
Môn học Số tiết
Tiếng Nhật tổng hợp 11
Nói 2
Bổ trợ nói 1
Nghe 2
Chữ Hán 1
Trong đó, giờ học Hội thoại sẽ được tiến hành sau khi sinh viên đã học xong nội
dung của cả bài (ngữ pháp, luyện tập…). Thêm vào đó giờ Bổ trợ nói sẽ do giáo viên
bản ngữ đảm nhiệm nhằm giúp sinh viên có cơ hội nghe và nói tiếng Nhật với người
bản ngữ, và có cơ hội luyện phát âm tốt hơn. Tuy nhiên trong giờ học Hội thoại thì
tập trung chủ yếu vào việc học và luyện tập đoạn hội thoại mẫu trong sách Kaiwa.
Những hội thoại mẫu trong mỗi bài sẽ chứa các mẫu câu học trong bài đó nên đôi khi
bối cảnh còn chưa tự nhiên, chưa thật gần gũi và chưa gây được hứng thú cho sinh
viên.
2. Điều tra khả năng Nói tiếng Nhật của sinh viên năm thứ nhất
Tiến hành điều tra sinh viên năm thứ nhất của trường có thể rút ra một số nhận xét
như sau:
- Sau khi tham khảo bảng điểm các môn tiếng Nhật tổng hợp có thể thấy điểm kỹ
năng Nói luôn thấp hơn so với các kỹ năng khác. Đây cũng là một điều dễ hiểu vì
trong quá trình học ngoại ngữ thì khả năng Nói và Viết vào nhóm kiến thức đầu ra
(output), và sự tiến triển của kỹ năng này luôn đi sau các kỹ năng đầu vào như Đọc
và Nghe.
- Tự tin trong kỹ năng Hội thoại: Đặc thù của sinh viên các trường Ngoại ngữ nói
chung là thích giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp với người bản xứ của thứ ngôn ngữ mà
mình đag theo đuổi. Tuy nhiên sinh viên tiếng Nhật thì hơi khác các sinh viên các
khoa khác. Nếu như sinh viên chuyên ngành tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc,
tiếng Pháp… thì trước khi vào đại học đã được học ngoại ngữ một số năm, đã có
kiến thức nền nhất định, khả năng giao tiếp nhất định, thì sinh viên tiếng Nhật mới
chỉ được làm quen với tiếng Nhật từ khi mới vào đại học. Kiến thức chuyên môn
tiếng Nhật chỉ bắt đầu từ con số “Không”. Hơn nữa, trong quá trình học ngoại ngữ,
sự tiến bộ trong kỹ năng Nói và Viết sẽ chậm hơn hai kỹ năng Đọc và Nghe. Chính vì
vậy, sinh viên tiếng Nhật cảm thấy không tự tin khi nói tiếng Nhật, đặc biệt các sinh
viên năm thứ nhất lại càng không tự tin khi phải nói tiếng Nhật.
- Cảm thấy bị gò bó trong câu trả lời: Trong giờ luyện tập trên lớp sinh viên được
luyện tập lại các mẫu câu đã học trong bài. Tuy nhiên việc luyện tập này chỉ mang
13
tính chất luyện tập để nhỡ mẫu câu chứ chưa giúp sinh viên kết nối, vận dụng các
mẫu câu đó trong khi tiến hành hội thoại.
- Thiếu bối cảnh gây hứng thú cho sinh viên:
Về phần bối cảnh, mặc dù đã cho sinh viên được tữ nghĩ ra bối cảnh khi luyện tập
với nhau nhưng vẫn theo những mẫu câu đã học sẵn nên mục tiêu vẫn hướng vào là
nhớ và dùng chính xác mẫu câu, tất nhiên ở trình độ sơ cấp thì tính chính xác vẫn
được đề cao, tuy nhiên vẫn phải quán triệt tinh thần của môn Hội thoại là phải trôi
chảy, ứng đối nhanh.
- Thiếu cơ hội luyện tập: Do đặc thù của kỹ năng Nói là không thể luyện tập được 1
mình nên hầu hết sinh viên chỉ luyện tập trong thời gian ít ỏi trên lớp rồi về nhà hầu
như không có thời gian luyện tập. Chính vì vậy hội thoại bằng tiếng Nhật vẫn là một
việc khá xa xỉ, sinh viên có nói tiếng Nhật nhưng chưa thật hết mình, chưa thật tự
giác.
- Khả năng hùng biện: Các em còn quá ít cơ hội để được phát biểu bằng tiếng Nhật
trước đông người (speech). Trong chương trình hiện tại chưa có môn học dành cho
kỹ năng hùng biện trước đám đông. Hầu hết các bài speech đều viết theo cảm hứng
tự nhiên, phần feedback của giáo viên còn chưa được nhiều. Các em còn chưa nắm
được làm thế nào để có thể phát biểu tốt trước đám đông, chưa được luyện tập kỹ
năng hùng biện bằng tiếng Nhật. Thậm chí những khi có cơ hội giao lưu với người
Nhật (không phải là giáo viên của mình) thì còn nhút nhát chưa tự tin bắt chuyện,
làm quen. Hàng năm có cuộc thi hùng biện tiếng Nhật do cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản JICA tổ chức, sinh viên trường ta cũng tham gia song còn mang tính cảm
hứng, chưa chuyên nghiệp, nên khả năng đạt giải cao chưa nhiều.
+ Khả năng hội thoại: Mặc dù đã được học một số mẫu câu thực dụng trong sinh hoạt
hàng ngày như cảm ơn, nhờ vả, xin phép, xin lỗi, từ chối… nhưng sinh viên mới chỉ
dừng ở mức nghe hiểu mà chưa biết vận dụng vào hội thoại, chưa vận dụng một cách
nhuần nhuyễn trong khi nói chuyện với người Nhật. Những mẫu câu vừa học xong
cớ thể dùng được ngay trong bài đó nhưng khi học sang một nội dung khác thì lại
quên những mẫu đã học hoặc dùng không chính xác. Sau mỗi mẫu câu, sinh viên có
thời gian để luyện tập mẫu câu đó song việc luyện tập đó xem ra chỉ đủ thời gian cho
các em hiểu, nhớ mẫu câu là chính chứ chưa giúp sinh viên thực sự thấm nhuần để
vận dụng vào các tình huống trong thực tế. Đặc biệt, sinh viên chưa hình dung được
cấu trúc của một đoạn hội thoại có hàm chứa các nội dung như cảm ơn, nhờ vả, xin
phép, xin lỗi, từ chối. Chính vì vậy, khi có việc cần trao đổi với người Nhật hoặc giáo
viên người Nhật trong thực tế thì hầu hết sinh viên rất lúng túng không biết bắt đầu
từ đâu hay nói cách khác là không biết đặt vấn đề khi tiến hành hội thoại. Lại càng
không biết cách làm thế nào để thể hiện một cách thuyết phục nội dung mình muốn
nói, nhằm đạt mục đích giao tiếp.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét