Trang 5
được gọi là thị trường liên ngân hàng (interbank market). Thị trường này phát triển
nhanh chóng nhờ vào sự thả nổi của các đồng tiền mạnh vào đầu thập niên 1970. Thị
trường liên ngân hàng bao gồm hàng trăm ngân hàng khắp thế giới, họ là những
người thay mặt cho chính họ hoặc cho khách hàng thực hiện các cam kết giao sau và
kỳ hạn với nhau.
đến những công cụ hiệu quả như swap và option.
Swap cũng là một công cụ phái sinh dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp
đồng. Các giao dịch hoán đổi là động lực chính của những tăng trưởng trên hợp đồng
kỳ hạn.
Giao dịch đầu tiên của thị trường option bắt đầu ở châu Âu và Mỹ từ đầu thế
kỷ 18. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì nạn tham nhũng. Một trong
những người liên quan là nhà môi giới có quyền chọn về một loại cổ phiếu nhất định
đã ăn hối lộ để giới thiệu cổ phiếu cho khách hàng của họ. Vào đầu những năm 1900,
một nhóm công ty đã thành lập hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền
chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và
những người bán lại với nhau. Tháng 4 năm 1973 Chicago Board of Trade lập thị
trường mới, Chicago Board Options Exchange, đặc biệt dành cho trao đổi option về
cổ phiếu. Từ đó thị trường option trở nên phổ biến với nhà đầu tư. Đến thập niên 80
của thế kỷ 20, thị trường option đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán và hợp đồng
future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường chứng khoán Philadelphia là nơi giao dịch
option ngoại tệ đầu tiên.
1.2.3 Các chủ thể tham gia trên thị trường.
1.2.3.1 Nhà bảo hộ giá (Hedger).
Chúng ta xem xét tình huống sau: Công ty Import Co.Ltd có một hợp đồng trị
giá 1 triệu USD, thời hạn thanh toán là 6 tháng, tỷ giá giao ngay (USD/VND) ở thời
điểm hiện tại: 15.990, tỷ giá giao ngay (USD/VND) khi hợp đồng đến hạn: chưa biết.
Công ty Import Co.Ltd đứng trước rủi ro nếu USD lên giá so với VND ở thời điểm
thanh toán. Sự lên giá này của USD có thể gây ra cho Import Co.Ltd tổn thất giao
Trang 6
dịch bằng trị giá hợp đồng nhân cho chênh lệch tỷ giá giữa hai thời điểm thanh toán
và ký kết. Để tránh rủi ro ngoại hối, công ty liên hệ với ngân hàng mua quyền chọn
mua có những nội dung sau:
- Trị giá quyền chọn (K): 1 triệu USD.
- Tỷ giá thực hiện (E): 16.010.
- Phí mua quyền chọn (P) tính trên mỗi đồng ngoại tệ: 20 đồng. Tổng chi phí
mua quyền chọn bằng 1 triệu x 20 đồng = 20 triệu đồng.
- Kiểu quyền chọn: kiểu Mỹ.
- Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T): 6 tháng.
Ở thời điểm này, Import Co.Ltd đã bỏ ra tổng chi phí 20 triệu đồng để mua
công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Mặc dù, lúc này thời điểm đáo hạn chưa xảy ra
nhưng công ty biết trước được khi đáo hạn có hai khả năng xảy ra và các giao dịch
khi quyền chọn đáo hạn như sau:
- Nếu tỷ giá mua giao ngay S
b
> E = 16.010 thì doanh nghiệp sẽ thực hiện
quyền chọn mua. Khi ấy giá trị của khoản phải trả quy ra nội tệ là V = 1 triệu USD x
16.010 = 16.010 triệu VND, bất chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao nhiêu.
Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND
để mua quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm nhưng vẫn
được cố định ở mức 16.010 + 20 = 16.030 triệu VND. Nhờ vậy, rủi ro ngoại hối được
kiểm soát.
- Nếu tỷ giá giao ngay S
b
< E = 16.010 thì doanh nghiệp không thực hiện
quyền chọn mua, mà mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi ấy giá trị khoản
phải trả là V(S
b
) = 1 triệu USD x S
b
= S
b
triệu VND. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp
trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND để mua quyền chọn nên giá
trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm lên đến (S
b
+ 20) triệu VND. Giá trị này
chưa được cố định nhưng bị chặn trên tối đa ở mức 16.030 triệu VND, vì S
b
< 16.010.
Do đó, rủi ro ngoại hối cũng được kiểm soát.
Kết quả là dù tỷ giá giao ngay khi hợp đồng nhập khẩu đến hạn là bao nhiêu đi
Trang 7
nữa thì giá trị phải thanh toán của hợp đồng nhập khẩu quy ra VND vẫn nằm ở mức
tối đa là 16.030 triệu VND.
1.2.3.2 Nhà đầu cơ (Speculator).
Chúng ta có thể sử dụng các công cụ phái sinh cho mục đích đầu cơ. Để làm
rõ việc sử dụng công cụ phái sinh vào mục đích đầu cơ như thế nào chúng ta xem xét
tình huống sau: Đang ở thời điểm hiện tại tỷ giá EUR/USD = 1,2028, ông A dự báo
rằng trong tương lai EUR sẽ lên giá so với USD và tỷ giá có thể lên đến EUR/USD =
1,2928.
Ông A mua EUR và chờ giá lên sẽ bán ra lấy lời trong tương lai. Dĩ nhiên là
việc mua EUR để đầu cơ này là một việc làm rủi ro vì nếu EUR không lên giá đúng
như dự đoán của mình thì ông A sẽ lỗ. Nhưng là người có kinh nghiệm và bản lĩnh
ông A tin chắc vào sự dự đoán của mình và kỳ vọng kiếm lời mỗi EUR được (1,2928
– 1,2028) = 0,09 USD. Chẳng hạn để kiếm được 11.250 USD ông A phải mua
125.000 EUR. Để mua được 125.000 EUR ngay thời điểm hiện tại ông A phải bỏ ra
125.000 x 1,2028 = 150.350 USD. Với số tiền USD phải bỏ ra khá lớn khiến ông A
có thể ngậm ngùi nhìn cơ hội kiếm 11.250 USD trôi qua trong tiếc nuối vì không có
tiền mua 125.000 EUR. Nhưng ông A có thể nắm bắt cơ hội đầu cơ bằng cách mua
hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR thay vì mua giao ngay 125.000 EUR. Vì mua
hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR chứ không phải mua 125.000 EUR nên ông A
không cần bỏ ra ngay 150.350 USD mà chỉ cần bỏ ra 1.755 USD ký quỹ theo yêu cầu
của Sở giao dịch. Như vậy, với số tiền bỏ ra ít hơn: 1.755 USD so với 150.350 USD
ông A vẫn mua được cơ hội kiếm lời nếu như tỷ giá biến động đúng như dự đoán của
ông ta. Với hợp đồng giao sau này, hàng ngày nếu tỷ giá EUR/USD lên đúng như dự
đoán của ông A thì tài khoản của ông A sẽ được ghi có một số tiền bằng chênh lệch
giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm nay so với ngày hôm trước nhân với trị giá hợp đồng.
Ngược lại, nếu tỷ giá xuống, tức là ngược với dự báo của ông A, thì tài khoản của
ông ta sẽ bị ghi nợ một số tiền bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm trước
so với ngày hôm nay nhân với trị giá hợp đồng. Ngoài ra, nếu việc ghi nợ nhiều khiến
Trang 8
cho số dư tài khoản ký quỹ của ông A giảm xuống đến mức tối thiểu do Sở giao dịch
quy định, ông A phải bỏ thêm tiền vào cho đủ mức quy định mới được tiếp tục giao
dịch.
1.2.3.3 Nhà kinh doanh chênh lệch tỷ giá (Arbitrage).
Kinh doanh chênh lệch tỷ giá liên quan đến việc mua ngoại tệ ở một thị trường
và bán lại ở một thị trường khác. Việc mua bán như vậy có khuynh hướng làm quân
bình tỷ giá giữa các thị trường khác nhau.
Giả sử có các tỷ giá sau đây trên thị trường quốc tế:
GBP/USD = 1,5809 – 1,5839 ở New York
USD/EUR = 0,9419 – 0,9487 ở Frankfurt
GBP/EUR = 1,4621 – 1,4671 ở London
Để khai thác cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá, nhà kinh doanh sẽ thực hiện
các giao dịch sau đây:
1. Từ New York nhà kinh doanh bán ra 1 triệu USD ở Frankfurt được:
1.000.000 x 0,9419 = 941.900 EUR.
2. Dùng số EUR này để mua GBP ở London được:
941.900 / 1,4671 = 642.014,86 GBP.
3. Bán số GBP vừa mua được ở New York được:
642.014,86 x 1,5809 = 1.014.961,29 USD.
Lợi nhuận do kinh doanh chênh lệch tỷ giá: 1.014.961,29 – 1.000.000 =
14.961,29 USD. Tuy lợi nhuận không lớn nhưng kiếm được trong thời gian rất ngắn
và hầu như không có rủi ro nên rất hấp dẫn.
Lợi nhuận hấp dẫn này thu hút nhiều người vào cuộc. Khi có nhiều người
nhảy vào cuộc, do có nhiều người dùng USD để mua EUR ở Frankfurt nên EUR sẽ
lên giá so với USD ở Frankfurt và do có nhiều người bán EUR lấy GBP ở London
nên EUR giảm giá so với GBP ở London, cuối cùng ở New York do có nhiều người
bán GBP để lấy USD nên GBP sẽ giảm giá so với USD ở New York. Cơ hội kinh
doanh chênh lệch giá cũng chấm dứt nhường chỗ cho sự quân bình tỷ giá giữa ba khu
Trang 9
vực thị trường.
Trên thực tế còn có chi phí giao dịch và rào cản giao dịch giữa các thị trường.
Chính điều này khiến cho giao dịch kinh doanh chênh lệch tỷ giá không phải dễ dàng
thực hiện. Kết quả, cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá ít khi xuất hiện và nếu có
cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
1.2.4 Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
1.2.4.1 Nghiệp vụ hối đoái giao ngay (spot).
Giao dịch hối đoái giao ngay là giao dịch mua, bán một số lượng ngoại tệ giữa
hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong
vòng hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán.
Tùy theo tập quán kinh doanh và điều kiện thị trường từng nước, có thể niêm
yết tỷ giá theo nhiều cách khác nhau. Nhưng nhìn chung có hai cách niêm yết giá trên
thị trường giao ngay dành cho hai đối tượng khách hàng khác nhau. Cách yết giá theo
kiểu Mỹ và kiểu Âu dành cho khách hàng là ngân hàng khác trên thị trường liên ngân
hàng. Cách yết giá trực tiếp và gián tiếp dành cho khách hàng thông thường, tức
khách hàng không phải là ngân hàng.
Yết giá theo kiểu Mỹ (American term) là cách niêm yết tỷ giá bằng số USD
trên đơn vị ngoại tệ. Yết giá theo kiểu châu Âu (European term) là cách niêm yết tỷ
giá bằng số ngoại tệ trên 1 đơn vị USD.
Yết giá trực tiếp (direct quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị
ngoại tệ thông qua một số lượng nội tệ nhất định. Yết giá gián tiếp (indirect
quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị nội tệ thông qua một số lượng
ngoại tệ nhất định. Theo thông lệ các đồng tiền thường được yết giá gián tiếp gồm có
bảng Anh, dollar Úc và dollar New Zealand, các đồng tiền thường được yết giá trực
tiếp gồm có yên Nhật, france Thụy Sĩ, dollar Singapore, và nhiều đồng tiền khác
trong đó có đồng Việt Nam. Riêng dollar Mỹ và Euro vừa yết giá gián tiếp vừa yết
giá trực tiếp.
Khi nói đến tỷ giá bao giờ cũng liên quan đến một cặp đồng tiền: đồng tiền yết
Trang 10
giá và đồng tiền định giá. Đồng tiền yết giá là đồng tiền biểu thị giá trị của nó qua
đồng tiền khác. Đồng tiền định giá là đồng tiền dùng để xác định giá trị đồng tiền
khác.
Trên thị trường hối đoái giao ngay thường diễn ra quan hệ mua bán ngoại tệ
giữa ngân hàng và khách hàng. Các ngân hàng thường không thu phí giao dịch hay
hoa hồng mà sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua để trang trải chi phí
giao dịch và thu lợi nhuận thỏa đáng. Chênh lệch giá mua và giá bán của một ngoại tệ
cao hay thấp tùy thuộc vào phạm vi giao dịch hẹp hay rộng và mức độ biến động giá
trị của ngoại tệ đó trên thị trường. Để có thể so sánh với các loại chi phí giao dịch
khác, chênh lệch tỷ giá bán và tỷ giá mua thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm
qua công thức sau:
Tỷ giá bán - Tỷ giá mua
Chênh lệch (%) =
__________________________________
x 100
Tỷ giá bán
Ví dụ chúng ta có tỷ giá GBP/USD = 1,4229 – 1,4246. Chênh lệch giữa tỷ giá
mua và tỷ giá bán mà khách hàng phải chịu khi mua bán ngoại tệ với ngân hàng:
1,4246 - 1,4229
Chênh lệch (%) =
______________________
x 100 = 0,12%
1,4246
Các ngoại tệ có thị trường giao dịch tương đối rộng như USD, GBP, EUR,
JPY thường có chênh lệch giá mua bán ở mức 0,1% đến 0,5% trong khi các ngoại tệ
mà thị trường giao dịch hẹp hơn có mức chênh lệch giá cao hơn nhiều. Lý do là ngân
hàng sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua vào các mục đích như phòng
ngừa rủi ro biến động tỷ giá ngoại tệ mua vào hoặc bán ra, bù đắp chi phí giao dịch
và cuối cùng là kiếm lợi nhuận thỏa đáng. Do vậy với các ngoại tệ có phạm vi giao
dịch hẹp, hoặc vào những thời kỳ tỷ giá của ngoại tệ nào đó biến động mạnh thì ngân
hàng duy trì chênh lệch giữa giá bán và giá mua lớn hơn so với các ngoại tệ khác
hoặc so với thời kỳ tỷ giá ổn định.
Trang 11
Giao dịch hối đoái giao ngay được ngân hàng sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu
mua hoặc bán ngoại tệ giao ngay cho khách hàng. Tuy nhiên, nhược điểm của giao
dịch hối đoái giao ngay là không đáp ứng được nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ của
những khách hàng nào cần mua hoặc cần bán ngoại tệ nhưng việc chuyển giao ngoại
tệ chưa thực hiện ngay ở hiện tại mà sẽ được thực hiện trong tương lai. Để đáp ứng
nhu cầu này của khách hàng ngân hàng phải phát triển thêm một loại giao dịch khác,
đó là giao dịch hối đoái có kỳ hạn.
1.2.4.2 Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn (forward).
Giao dịch hối đoái có kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua,
bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức giá xác định và việc thanh toán sẽ
được thực hiện trong tương lai.
Tỷ giá có kỳ hạn thường được yết theo hai cách: yết giá theo kiểu outright và
yết giá theo kiểu swap. Tỷ giá có kỳ hạn theo kiểu outright đơn giản là giá cả của một
đồng tiền này tính bằng một số đơn vị đồng tiền kia. Nó cũng được niêm yết tương tự
như tỷ giá giao ngay chỉ khác một điều là tỷ giá được hai bên xác định và thỏa thuận
ở hiện tại nhưng sẽ được áp dụng trong tương lai. Tỷ giá theo kiểu swap chỉ yết phần
chênh lệch theo số điểm căn bản (basic points) giữa tỷ giá có kỳ hạn và tỷ giá giao
ngay tương ứng. Yết giá theo kiểu swap thường được sử dụng trên thị trường liên
ngân hàng, tức là trong giao dịch giữa một ngân hàng này với một ngân hàng khác.
Tỷ giá có kỳ hạn (forward rate) là tỷ giá áp dụng trong tương lai nhưng được
xác định ở hiện tại. Tỷ giá này áp dụng cho các giao dịch mua bán ngoại tệ có kỳ hạn
và được xác định dựa trên cơ sở tỷ giá giao ngay và lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Gọi: - F: là tỷ giá có kỳ hạn.
- S: là tỷ giá giao ngay.
- r
d
: là lãi suất của đồng tiền định giá.
- r
y
: là lãi suất của đồng tiền yết giá.
Ta có tỷ giá có kỳ hạn được xác định bởi công thức sau:
1 + r
d
Trang 12
F = S
___________
(1)
1 + r
y
Công thức (1) trên đây dựa trên cở sở lý thuyết cân bằng lãi suất (interest rate
parity) – IRP. Lý thuyết này nói rằng chênh lệch lãi giữa hai quốc gia phải được bù
đắp bởi chênh lệch tỷ giá giữa hai đồng tiền để những người kinh doanh chênh lệch
giá không thể sử dụng hợp đồng có kỳ hạn kiếm lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch lãi
suất.
Ở Việt Nam các ngân hàng thương mại thường áp dụng phổ biến công thức
gần đúng của công thức (1) hơn. Ta có thể viết lại công thức (1) như sau:
1 + r
d
1 + r
d
+ r
y
- r
y
r
d
- r
y
F = S
__________
= S
______________________
= S + S
___________
1 + r
y
1 + r
y
1 + r
y
Vì lãi suất r
y
thường nhỏ nên ta có thể xấp xỉ 1 + r
y
≈ 1. Khi ấy, công thức
này có thể viết lại thành F = S + S(r
d
- r
y
). Ở đây lãi suất tính theo đơn vị phần trăm
một năm. Nếu chuyển đổi lãi suất thành đơn vị phần trăm cho kỳ hạn n ngày và năm
có 360 ngày thì ta sẽ có công thức:
S(r
d
- r
y
)n
F = S +
_____________
100 x 360
Giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn thỏa mãn được nhu cầu mua bán ngoại tệ của
khách hàng mà việc chuyển giao được thực hiện trong tương lai. Tuy nhiên, do giao
dịch kỳ hạn là giao dịch bắt buộc nên khi đến ngày đáo hạn dù bất lợi hai bên vẫn
phải thực hiện hợp đồng. Một điểm hạn chế nữa là hợp đồng kỳ hạn chỉ đáp ứng
được nhu cầu khi nào khách hàng chỉ cần mua hoặc bán ngoại tệ trong tương lai còn
hiện tại không có nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ. Đôi khi trên thực tế khách hàng
vừa có nhu cầu mua bán ngoại tệ ở hiện tại đồng thời vừa có nhu cầu mua bán ngoại
tệ ở trong tương lai. Rõ ràng trong tình huống này chỉ với giao dịch hối đoái giao
ngay hay chỉ với giao dịch hối đoái kỳ hạn chưa thể đáp ứng được nhu cầu giao dịch
Trang 13
của khách hàng, mà phải kết hợp cả hai loại giao dịch này lại với nhau mới đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng. Sự kết hợp này hình thành nên một loại giao dịch mới
đó là giao dịch hoán đổi.
1.2.4.3 Nghiệp vụ hối đoái hoán đổi (swap).
Giao dịch hoán đổi là giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch:
giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với đồng tiền khác,
trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch
được xác định tại thời điểm ký hợp đồng. Về cơ bản giao dịch swap gồm: 1 giao dịch
spot và 1 giao dịch forward trái chiều với giao dịch spot.
Thời hạn giao dịch hoán đổi có thể từ 3 ngày đến 6 tháng. Nếu ngày đáo hạn
rơi vào ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ thì hai bên sẽ thỏa thuận chọn một ngày đáo hạn
thích hợp và thời hạn hợp đồng sẽ tính trên số ngày thực tế.
Trong giao dịch hoán đổi, ngày thanh toán bao gồm hai loại ngày khác nhau:
ngày hiệu lực và ngày đáo hạn. Ngày hiệu lực là ngày thực hiện thanh toán giao dịch
giao ngay trong khi ngày đáo hạn là ngày thực hiện thanh toán giao dịch có kỳ hạn.
Một hợp đồng hoán đổi liên quan đến hai loại tỷ giá: tỷ giá giao ngay và tỷ giá
có kỳ hạn. Tỷ giá giao ngay là tỷ giá do ngân hàng niêm yết tại thời điểm giao dịch
do hai bên thỏa thuận. Tỷ giá có kỳ hạn được tính trên cơ sở tỷ giá giao ngay, chênh
lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ, và số ngày thực tế của hợp đồng.
Giao dịch hoán đổi chỉ giải quyết được nhược điểm của hợp đồng giao ngay là
có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương lai, đồng thời
khắc phục được nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãn nhu cầu
ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, cũng như giao dịch kỳ hạn,
giao dịch hoán đổi vẫn còn hạn chế ở hai điểm:
- Nó là hợp đồng bắt buộc yêu cầu các bên phải thực hiện khi đáo hạn bất chấp
tỷ giá trên thị trường giao ngay lúc đó như thế nào. Điều này có lợi là tránh được rủi
ro tỷ giá cho khách hàng, nhưng đồng thời đánh mất đi cơ hội kinh doanh nếu như tỷ
giá biến động trái với dự đoán của khách hàng.
Trang 14
- Nó chỉ quan tâm đến tỷ giá ở hai thời điểm: thời điểm hiệu lực và thời điểm
đáo hạn, mà không quan tâm đến sự biến động tỷ giá trong suốt quãng thời gian giữa
hai thời điểm đó.
Chính những hạn chế này khiến cho hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi
chỉ có thể là công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá và thích hợp với nhu cầu phòng ngừa
rủi ro tỷ giá của khách hàng hơn là nhu cầu kinh doanh hay đầu cơ kiếm lời từ sự
biến động tỷ giá. Để bổ sung cho hạn chế này của giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán
đổi, ngân hàng phát triển thêm một loại công cụ khác, đó là hợp đồng giao sau.
1.2.4.4 Nghiệp vụ hối đoái giao sau (future).
Hợp đồng giao sau là một thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết
theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao ngoại tệ
được thực hiện vào một ngày trong tương lai được xác định bởi Sở giao dịch. Tuy
nhiên, khác với hợp đồng có kỳ hạn, hợp đồng giao sau chỉ sẵn sàng cung cấp đối với
một vài loại ngoại tệ mà thôi. Chẳng hạn, thị trường Chicago chỉ cung cấp hợp đồng
với sáu loại ngoại tệ mạnh đó là GBP, CAD, EUR, JPY, CHF và AUD. Thị trường
giao sau thực chất chính là thị trường có kỳ hạn được tiêu chuẩn hóa về loại ngoại tệ
giao dịch, số lượng ngoại tệ giao dịch và ngày chuyển giao ngoại tệ.
Tất cả các hợp đồng giao sau đều thực hiện giao dịch ở Sở giao dịch có tổ
chức. Sở giao dịch là người đề ra quy chế và kiểm soát hoạt động của các hội viên.
Hội viên của Sở giao dịch là các cá nhân, có thể là đại diện của các công ty, ngân
hàng thương mại hay cá nhân có tài khoản riêng.
Để dễ hiểu hơn về cách thức thực hiện một hợp đồng giao sau, ta sẽ xem xét ví
dụ: Nhà đầu cơ thị trường giao sau dự báo vài ngày tới CHF sẽ lên giá so với USD.
Nhằm kiếm tiền từ cơ hội này, một nhà đầu tư trên thị trường giao sau Chicago mua
một hợp đồng giao sau trị giá 125.000 CHF với tỷ giá 0,75 USD cho 1 CHF. Hợp
đồng này sẽ đến hạn vào 3 ngày sau. Để bắt đầu, trước tiên nhà đầu tư phải bỏ 2.565$
vào tài khoản ký quỹ ban đầu. Biết rằng mức ký quỹ tối thiểu nhà đầu cơ phải duy trì
đối với hợp đồng giao sau CHF là 1.900 USD, nhà đầu cơ phải sẵn sàng thêm tiền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét