Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014
Một số biện pháp nhằm củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cổ Phần tư vấn thiết kế và chuyển giao công nghệ
+ Đối tượng trao đổi: Sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ.
+ Đối tượng tham gia trao đổi: bên bán và bên mua.
+ Điều kiện thực hiện trao đổi: Khả năng thanh toán.
Trên thực tế, hoạt động cơ bản của thị trường được thể hiện qua ba nhân tố: cung,
cầu và giá cả. Hay nói cách khác thị trường chỉ có thể ra đời, tồn tại và phát triển khi
có đầy đủ ba yếu tố là:
+ Phải có hàng hoá dư thừa để bán ra.
+ Phải có khách hàng, mà khách hàng phải có nhu cầu chưa được thoả mãn và có
sức mua.
+ Giá cả phải phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng và đảm bảo cho
sản xuất kinh doanh có lãi.
Qua đây cho thấy điều quan tâm của doanh nghiệp (người bán) là phải tìm ra thị
trường và phát triển thị trường đó, tìm ra nhu cầu của thị trường và khả năng thanh
toán của sản phẩm dịch vụ mà mình cung ứng. Ngược lại, đối với người tiêu dùng
(người mua) họ phải quan tâm đến việc so sánh những sản phẩm mà nhà sản xuất
cung ứng có thoả mãn nhu cầu của mình không và phù hợp với khả năng thanh toán
của mình đến đâu.
Từ những nội dung trên thị trường được định nghĩa như sau:
Thị trường là biểu hiện của qua trình mà trong đó thể hiện các quyết định của
người tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ cũng như các quyết định của các doanh
nghiệp về số lượng, chất lượng, mẫu mã của hàng hóa. Đó chính là mối quan hệ giữa
tổng số cung và tổng số cầu của tường loại hàng hoa cụ thế.
Tuy nhiên, thị trường được nhiều nhà định nghĩa khác nhau. Hội quản trị Hoa kỳ
cho rằng: ”Thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện, trong đó người
mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hóa và dịch vụ từ người bán
5
sang người mua”. Có nhiều quan niệm lại cho rằng: ”Thị trường là lĩnh vực trao đổi
mà ở đó người mua và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa
dịch vụ”, hoặc đơn giản hơn ”Thị trường là tổng hợp các số cộng của người mua về
một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ”.
Hiểu một cánh tổng quát, thị trường là nơi mà người mua và người bán tự tìm đến
với nhau qua trao đổi, thăm dò, tiếp xúc để nhận lời giải đáp mà mối bên cần biết.
Còn hiểu theo góc độ Marketing, thật ngữ thị trường được dùng để ám chỉ một
nhóm khánh hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định. Bởi mặc dù tham gia thị
trường phải có cả người bán và người mua nhưng những người làm Marketing lại coi
người bán hợp thành ngành sản xuất cung ứng, còn người mua mới hợp thành thị
trường.
Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay
mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thảo mãn nhu cầu
và mong muốn đó.
Như vậy theo quan niệm này quy mô thị trường sẽ tùy thuộc số người có nhu cầu
và mong muốn vào lượng thu nhập, lượng tiền vốn mà họ sẵn sàng bỏ ra để mua
hàng hóa thỏa mãn nhu cầu và mong muốn đó. Quy mô thị trường không phụ thuộc
vào số người đã mua hàng và cũng không phụ thuộc vào số người có nhu cầu và
mong muốn khác nhau.
Tuy nhiên, dù hiểu thị trường theo cách nào thì mục tiêu lựa chọn duy nhất của
các doanh nghiệp vẫn là lợi nhuận các doanh nghiệp thông qua thị trường mà tìm
cách giải quyết các vấn đề:
- Phải sản xuất hàng hoá gì? Cho ai?
- Số lượng bao nhiêu?
- Mẫu mã, kiểu cách, chất lượng như thế nào?
6
Còn người tiêu dùng thì biết:
- Ai sẽ đáp ứng được nhu cầu của mình?
- Nhu cầu được thoả mãn đến mức nào?
- Khả năng thanh toán ra sao?
Tất cả các câu hỏi trên chỉ có thể trả lời chính xác trên thị tường. Trong công tác
quản lý kinh tế, xây dựng kế hoạch mà không dựa vào thị trường để tính toán và kiểm
chứng số cung, cầu thì kế hoạch sẽ không có cơ sở khoa học và mất phương hướng,
mất cân đối. Ngược lại, việc mở rộng thị trường mà thoát khỏi sự điều tiết của công
cụ kế hoạch thì tất yếu dẫn đến sự rối loạn trong hoạt động kinh doanh.
Từ đó ta thấy: Sự nhận thức phiến diện về thị trường cũng như sự điều tiết thị
trường theo ý muốn chủ quan, duy ý trí trong quản lý và chỉ đạo kinh tế đều đồng
nghĩa với việc đi ngược lại các hệ thống qui luật kinh tế vốn có trong thị trường và
hậu quả sẽ làm nền kinh tế khó phát triển.
1.1.2.2. Quy luật của thị trường
Trên thị trường có nhiều quy luật kinh tế hoạt động đan xen nhau, và có quan hệ
mật thiết với nhau, sau đây là một số quy luật cơ bản sau:
* Quy luật giá trị
Yêu cầu của quy luật này là sản xuất và trao đổi hàng hóa được tiến hành phù hợp
với hao phí lao động cần thiết tạo ra sản phẩm. Quy luật giá trị được thể hiện như quy
luật giá cả và giá cả thì luôn biến động xoay quanh giá trị.
Do quy luật giá trị( biểu hiện thông qua giá cả, làm cho người bán hàng hóa mở
rộng hoặc thu hẹp bớt quy mô sản xuất loại hàng hóa mà giá cả thấp hơn giá trị để
dồn vào sản xuất loại hàng hóa nào có giá cả cao hơn giá trị).
* Quy luật cung cầu giá cả
7
Quy luật cung cầu nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị
trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển động xích lại
với nhau tạo thế cân bằng trên thị trường.
Cầu là một đại lượng tỷ lệ nghịch với giá, cung là một đại lượng tỷ lệ thuật với
giá.Khi cầu lớn hơn cung thì gí cả cao hơn giá trị và ngược lại.
Quy luật về cung cho ta biết ở một mặt bằng giá nhất định có bao nhiêu sản phẩm
sẽ được người sản xuất đưa bán trên thị trường, quy luật về cầu lại cho biết với giá
như vậy thì có bao nhiêu sản phẩm sẽ được người tiêu dùng chấp nhận mua.
* Quy luật cạnh tranh
Các chủ thể tham gia canh tranh phải dùng mọi biện pháp để độc chiếm hoặc
chiếm hữu ưu thế thị trường về sản phẩm cạnh tranh, nhờ đó thu lợi nhuận kinh tế
cao nhất trong phạm vi cho phép.
Các phương pháp cơ bản để cạnh tranh là:
+ Thu nhỏ chi phí lao động cá biệt của doanh nghiệp dưới mức chi phí lao động xã
hội trung bình.
+ Sử dụng tích cực các yếu tố về thị hiếu, tâm lý khách hàng để sớm đưa ra các sản
phẩm mà người tiêu dùng chấp nhận.
+ Sử dụng sức ép phi kinh tế để độc chiếm hoặc chiếm ưu thế trên thị trường.
* Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật này chỉ ra rằng số lượng (hay khối lượng) tiền lưu thông phải phù hợp với
tổng giá trị hàng hóa lưu thông trên thị trường. Số lượng tiền cho lưu thông được tính
bằng thương giữa tổng giá trị hàng hóa lưu thông với tốc độ vòng quay của tiền.
Tiền tệ là phương tiện trao đổi (lưu thông), là thứ dầu mỡ bôi trơn cho quá trình
trao đổi.Nên phạm vi quy luật này sẽ dấn tới ách tắc trong lưu thông hoặc lạm phát,
8
gây khó khăn, dẫn đến mất ổn định về kinh tế.
Ngoài thị trường còn có các quy luật khác như quy luật kinh tế, quy luật giá trị
thặng dư,…
1.1.2.3. Phân loại thị trường
Một trong những bí quyết quan trọng nhất để thành công đó là sự am hiểu cặn kẽ
tính chất của từng loại thị trường. Phân loại thị trường là cần thiết là khách quan để
nắm được những đặc điểm chủ yếu của từng thị trường song tuỳ vào mỗi phương
pháp phân loại mà nó có ý nghĩa quan trọng riêng đối với quá trình kinh doanh.
- Căn cứ vào nguồn gốc sản xuất ra hàng hoá mà người ta phân thị trường thành:
thị trường hàng công nghiệp và thị trường hàng nông nghiệp (Bao gồm hàng lâm
nghiệp và hàng ngư nghiệp ).
+Thị trường hàng công nghiệp bao gồm hàng của công nghiệp khai thác và hàng
công nghiệp chế biến. Công nghiệp khai thác có sản phẩm là nguyên vật liệu. Công
nghiệp chế biến có sản phẩm làm hàng tinh chế. Các hàng hoá này có đặc tính cơ, lý,
hoá học và trạng thái khác nhau, hàm lượng kỹ thuật khác nhau.
+Thị trường hàng nông nghiệp bao gồm hàng hoá có nguồn gốc từ thực vật, các
loại hàng ngư nghiệp trong đó có cả hàng hoá qua khâu công nghiệp chế biến thành
hàng tinh chế.
- Căn cứ vào khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường người ta phân chia
thành thị trường chính, thị trường phụ, thị trường nhánh và thị trường mới.
+ Đối với mỗi doanh nghiệp lượng hàng tiêu thụ trên thị trường chính là thị
trường chiếm đại đa số hàng hoá của doanh nghiệp.
+Thị trường phụ là loại thị trường không thuộc thị trường chính của doanh
nghiệp,không liên quan tới thị trường chính.
+Thị trường nhánh là thị trường chỉ tiêu thụ một lượng hàng chiếm tỷ trọng nhỏ.
9
+Thị trường mới là thị trường mà doanh nghiệp đang xúc tiến thăm dò và đưa
hàng vào, còn trong giai đoạn thử nghiệm chưa có khách hàng quen thuộc.
- Căn cứ vào mặt hàng người ta chia thành thị trường từng loại mặt hàng:
+Thị trường máy móc: Còn gọi là thị trường đầu tư.
+ Thị trường hàng nguyên vật liệu: Còn gọi là thị trường hàng trung gian.
Như vậy có rất nhiều tên gọi sản phẩm, mỗi tên gọi đó hợp thành thị trường của một
hàng hoá cụ thể. Do giá trị và tính chất sử dụng khác nhau của từng nhóm và mặt
hàng mà các thị trường chịu tác động của các nhân tố ảnh hưởng với mức độ khác
nhau. Sự khác nhau này đôi khi ảnh hưởng tới cả phương thức mua bán, vận chuyển
và thanh toán.
- Căn cứ vào vai trò của người mua và người bán trên thị trường có thị trường
người mua và thị trường người bán. Trên từng thị trường của người mua hay người
bán mà vai trò quyết định thuộc về người đó.
+Thị trường người bán xuất hiện ở những nền kinh tế mà sản xuất hàng hoá kém
phát triển hoặc ở nền kinh tế kế hoạch tập trung. Trên thị trường này người mua đóng
vai trò thụ động.
+ Ngược lại thị trường người mua xuất hiện ở những nền kinh tế phát triển như
trong nền kinh tế thị trường, người mua đóng vai trò trung tâm chủ động vì họ được
ví như "thượng đế" của người bán. Người bán phải chiều chuộng lôi kéo người mua,
khơi dậy và thoả mãn nhu cầu của người mua là quan tâm hàng đầu là sống còn của
người sản xuất kinh doanh.
- Căn cứ vào sự phát triển của thị trường người ta chia thành: Thị trường hiện
thực và thị trường tiềm năng.
+ Thị trường hiện thực (truyền thống) : Là thị trường đang tiêu thụ hàng hoá của
mình, khách hàng quen thuộc và đã có sự hiểu biết lẫn nhau.
10
+ Thị trường tiềm năng : Là thị trường có nhu cầu song chưa được khai thác,
hoặc chưa có khả năng thanh toán.
- Căn cứ vào phạm vi thị trường người ta chia thành thị trường thế giới, thị
trường khu vực, thị trường toàn quốc, thị trường miền và thị trường địa phương.
+ Thị trường thế giới: Là thị trường ở các nước Châu âu, Châu Phi, Châu á và
Trung Đông…
+ Thị trường khu vực: Đối với nước ta là các nước Hồng Kông, Đài Loan, Nam
Triều Tiên, các nước Đông Nam á như: Inđônêsia, Thái Lan, Singapo
+Thị trường miền:Là loại thị trường hoạt động trong phạm vi một miền nhất định
như: Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam,…
+Thị trường địa phương: Là loại thị trường hoạt động trong phạm vi một địa
phương nào đó có quy mô nhỏ hơn thị trương miền.
Ngoài ra căn cứ vào nơi sản xuất: Người ta phân ra thành thị trường hàng sản
xuất trong nước và thị trường hàng xuất khẩu.
1.1.2.4. Các yếu tố cấu thành thị trường
- Cung hàng hoá: Là toàn bộ khối lượng hàng hoá đang có hoặc sẽ được đưa ra
bán trên thị trường trong một khoảng thời gian thích hợp nhất định và mức giá đã
được xác định trước.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cung:
+ Các yếu tố về giá cả hàng hoá
+ Cầu về hàng hoá
+ Các yếu tố về chính trị xã hội
+ Trình độ công nghệ
11
+ Tài nguyên thiên nhiên
- Cầu hàng hoá: Là nhu cầu có khả năng thanh toán.
Các nhân tố ảnh hưởng:
+ Qui mô thị trường
+ Giá cả thị trường
+ Mức quảng cáo về các sản phẩm khác, đặc biệt là sản phẩm bổ sung và sản
phẩm thay thế
+ Thu nhập được sử dụng của người tiêu dùng
+ Sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng
+ Cung hàng hoá
+ Giá cả của những hàng hoá khác có liên quan
+ Ngoài ra còn phụ thuộc vào lãi suất, sự sẵn có của tín dụng, kỳ vọng về giá cả
sản phẩm
- Giá cả thị trường: Mức giá cả thực tế mà người ta dùng để mua và bán hàng hoá
trên thị trường, hình thành ngay trên thị trường.Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị
trường:
+ Nhân tố tác động thông qua cung hàng hoá
+ Nhóm nhân tố tác động thông qua cầu hàng hoá
+ Nhóm nhân tố tác động thông qua sự ảnh hưởng một cách đồng thời tới cung
cầu hàng hoá.
- Cạnh tranh: đó là sự ganh đua kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường
nhằm cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình
12
1.1.2.5. Chức năng của thị trường
Thị trường có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Qua thị
trường có thể nhận biệt được sự phân phối các nguồn lực sản xuất thông qua hệ thống
giá cả. Trên thị trường giá cả hàng hoá và các nguồn lực khác về tư liệu sản xuất sức
lao động luôn biến động nhằm đảm bảo các nguồn lực có hạn này được sử dụng để
sản xuất những hàng hoá, dịch vụ, mà xã hội có nhu cầu. Thị trường là khách quan,
do vậy các doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở nhận biết nhu cầu xã hội và lợi thế của
mình mà có phương án kinh doanh phù hợp đem lại lợi nhuận cao nhất. Sở dĩ thị
trường có vai trò to lớn như vậy là do các chức năng sau:
- Chức năng thừa nhận
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán. Người bán mong muốn
bán được nhiều hàng hoá với giá cả sao cho bù đắp được mọi chi phí và có nhiều lợi
nhuận. Người mua tìm đến thị trường để mua hàng hoá thoả mãn được nhu cầu và có
khả năng thanh toán theo ý mình. Đối với bất kỳ hàng hoá nào sẽ có hai khả năng xảy
ra:
+ Không được thị trường thừa nhận, tức là hàng hoá đó không thoả mãn được
nhu cầu hoặc không phù hợp với điều kiện thanh toán của người mua.
+ Được thị trường thừa nhận, hàng hoá đó đáp ứng được yêu cầu về giá cả, số
lượng, chất lượng, sự đồng bộ. cũng như các yêu cầu khắt khe khác của người mua,
nên hàng hoá đó có người mua.
- Chức năng thực hiện
Chức năng này đòi hỏi hàng hoá dịch vụ phải được thực hiện giá trị trao đổi bằng
tiền hoặc giấy tờ có giá trị khác. Người bán cần tiền còn người mua cần hàng, sự gặp
gỡ giữa người mua và người bán được xác định bằng giá cả và số lượng hàng hoá
mua bán. Hàng hoá dịch vụ bán được tức là có sự dịch chuyển hàng hoá và dịch vụ từ
người bán sang người mua.
13
- Chức năng điều tiết và kích thích
Qua hành vi trao đổi hàng hoá dịch vụ trên thị trường, thị trường điều tiết và kích
thích sản xuất kinh doanh phát triển hoặc ngược lại. Đối với các doanh nghiệp sản
xuất và doanh nghiệp thương mại, hàng hoá dịch vụ tiêu thụ nhanh sẽ kích thích
doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh để cung ứng nhiều hàng hoá hơn nữa cho
thị trường. Ngược lại, nếu hàng hoá dịch vụ không tiêu thụ được sẽ là tác nhân điều
tiết doanh nghiệp hạn chế sản xuất, thu mua hoặc chuyển hướng sản xuất kinh
doanh. Chức năng này còn điều tiết các doanh nghiệp gia nhập ngành hoặc rút khỏi
ngành, khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh nghiên cứu kinh doanh các mặt
hàng mới chất lượng cao khả năng tiêu thụ khối lượng lớn.
- Chức năng thông tin
Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng hàng hoá dịch vụ,
nhu cầu hàng hoá dịch vụ, giá cả hàng hoá và dịch vụ. Đó là những thông tin quan
trọng đối với mọi nhà sản xuất kinh doanh, cả người mua và người bán, cả người
cung ứng và người tiêu dùng, cả người quản lý và những người nghiên cứu sáng tạo.
Có thể nói đó là những thông tin quan trọng đối với toàn xã hội. Có thể nói thông tin
thị trường là không khách quan vì vậy mà khó có thể dự đoán chính xác những
thông tin này. Không có thông tin thị trường thì không thể có quyết định đúng đắn
trong sản xuất kinh doanh, cũng như trong quyết định của Chính Phủ về quản lý kinh
tế vĩ mô. Bởi vì thị trường có những thông tin tổng hợp về cầu - hành vi của người
mua, cũng như về cung - hành vi của người bán, giá cả thị trường là kết quả của sự
tương tác giữa người mua và người bán với nhau. Vì vậy việc thu thập các thông tin
về thị trường được sự chú ý của cả giới sản xuất kinh doanh, cả người tiêu dùng và
của toàn xã hội.
Bốn chức năng của thị trường có quan hệ mật thiết với nhau.Mỗi hiện tượng kinh
tế diễn ra trên trị trường đều thể hiện bốn chức năng nay. Vì là những tác động vốn
có bắt nguồn từ bản chất thị trường, do đó không nên đặt vấn đề chức năng nào quan
14
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét