Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

NHẬN XÉT CÁC CÔNG CỤ ĐIẾU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN TRONG THỜI GIAN TỪ 2008 – 2010.doc

• Không chịu thua, ngày 21/2/2008 NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB)
đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho
kỳ hạn 1 tháng.
• Không chịu kém, từ ngày 22/2/2008, NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) đưa ra
mức lãi suất cao hơn, huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất tới 13,5%/năm.
• Một số ngân hàng còn đưa ra mức lãi suất thỏa thuận tới 1.2%- 1.3%/ tháng
đối với khách hàng gửi tiền lớn, hay giữ chân khách hàng rút tiền đến hàng tỷ đồng.
 Lãi suất ngân hàng đã ở mức “cực kỳ nguy hiểm”. Là nguyên nhân tiềm ẩn của
cơn đổ vỡ những quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng trong thời điểm lạm phát lên
đến 200%-300% như lúc này. Băng chứng là cuộc đổ vỡ của gần 6000 quỷ tín dụng
và HTX tín dụng vào năm 1987-1988 ở nước ta.
2/Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất lien ngân hàng tăng cao chóng mặt.
Lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập
một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới
43%/năm…
 một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm. đây là phản
ứng sốc thuốc của các ngân hàng thương mại, tạo nên 1 cơn hỗn loạn tạm thời
Các giải pháp của NHNN trước hiện tượng sốc thuốc:
● Thị trường “căng” đến mức ngày 22/2/2008. NHNN phải bơm thêm 6.000 tỷ
đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số NHTM trúng thầu, với lãi suất tới
13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008.
● Trong vòng tuần , NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh
khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trước đến nay.
4. Nhận xét
1/ Nhược điểm
5

• Với mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN
từ trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá
ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các NHTM Nhà nước, một số
ít NHTM cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có điều
kiện đang sở hữu tín phiếu NHNN và Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu đô thị
TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó, còn phần đông các
NHTM cổ phần thì không.
• Do đó các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại trên thị
trường liên ngân hàng khoản vay của các NHTM đó với lãi suất từ 30% đến
43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của NHNN. Không phải làm gì, các
NHTM Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình trạng vốn chạy lòng vòng
đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến
tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ thống NHTM.
• Tạo ra những thiếu hụt trầm trọng về vốn của của các nhtm, làm đẩy lãi suất
lên quá cao trong thời gian quá ngắn, gây hỗn loạn thị trường tạm thời.
2/ Ưu Điểm
• Khi đánh giá về chính sách tiền tệ phải đứng ở góc độ của toàn dân chứ
không thể chỉ đứng trên quan điểm của doanh nghiệp.
• Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, chính sách tiền tệ thông qua điều hành lãi
suất tiền gửi và lãi suất dự trữ bắt buộc kịp thời đã giúp ngân hàng vượt qua được
thời kỳ sóng gió đó. Đến bây giờ cơ bản các ngân hàng hoạt động ổn định, lãi suất
huy động và lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần đã dần trở
lại gần như cuối năm 2007.
• Nền tài chính quốc gia không sụp đổ, bảo đảm cho sự ổn định về kinh tế,
chính trị và xã hội. Đó là mối quan hệ nhân quả của chính sách tiền tệ đúng.
6
• Chính sách tất nhiên chưa thể nói là cực chuẩn nhưng việc điều hành đã
đúng quy luật của kinh tế thị trường, đó là thành công.
Chính sách tiền tệ là thành công lớn nhất của năm 2008.
5. Những thay đổi của chính sách tiền tệ trong giai đoạn cuối năm
2008
Sau 1 thời gian thắt chặt tiền tệ , ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo
những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất nhằm nới lỏng thị trường.
Nguồn NHNN
• Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng
đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá
150% của lãi suất cơ bản.
• Ngày 20/10/2008, NHNN ban hành 1 loạt những thay đổi lớn trong điều
hành chính sách tiền tệ.
• Quyết định số 2316/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam
giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm. Theo đó lãi suất cho vay bằng VND của các
ngân hàng thương mại trên thị trường từ ngày 21/10/2008 tối đa là 19,5%/năm, thay
cho mức 21%/năm trước đó.
7
• Quyết định số 2317/QD- NHNN về quy định cho thanh khoản trước hạn
20.300 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc theo nhu cầu của các tổ chức
tín dụng.
• Quyết định số 2318/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay
bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đối với các ngân hàng, lãi suất tái cấp vốn được giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm;
lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán
bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 15%/năm
xuống 14%/năm.
• Quyết định số 2321/QĐ-NHNN về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng
đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm.
Từ ngày 5/11/2008 Lãi suất liên tục giảm cho đến cuối năm
Nhận xét :
• Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tăng mạnh như trên sẽ tạo một thuận lợi lớn,
hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm bớt chi phí vốn, hỗ trợ cho mục tiêu lợi
nhuận sắp tới; gián tiếp tạo điều kiện để các ngân hàng có thể xem xét tiếp tục giảm
8
lãi suất cho vay đầu ra, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng
• Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả
năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008;
an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư,
doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại.
Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động
của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường
tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.
• Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy
động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và
tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà
nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng
đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với
chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
• Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là
động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang
trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ
chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá
nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý
nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính
sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2009.
Tình hình chung:
9
Năm 2009 là năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó
lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trên toàn thế giới.
Biện pháp NHNN:
Ngân hàng Nhà nước đã thực thi Chính sách tiền tệ một cách linh hoạt phối hợp
đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường
NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc
từ 11% xuống 5%. Các loại lãi suất: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử lien ngân hang và cho vay bù đắp
thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hang nhà nước đối với các ngân hàng
đều được giảm với mức phổ biến là 1%.
 Cụ thể lãi suất tái cấp vốn là 7%/năm so với mức 8%/năm như trước đây
 Lãi suất tái chiết khấu là 5%/năm so với mức 6%/năm
 Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử lien ngân hang và cho vay bù
đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hàng nhà nước đối với các ngân
hàng giảm từ 8%/năm xuống 7%/năm.
 Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn.
Ta thấy rằng không có một lời nhận xét nào xác đáng hơn khi chúng ta nhìn thẳng
vào thực tế những gì đang xảy ra từng ngày từng giờ để quan sát xem chính sách
tiền tệ đã có những tác động như thế nào đối với nền kinh tế, cụ thể là thông qua sự
vận động của các thị trường của nền kinh tế. Sau đây là những đánh giá sự vận động
của các thị trường sau khi chịu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ:
 Ảnh hưởng đến Nền kinh tế:
1. Thị trường ngoại hối:
10
Sáu tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi.
Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá,
các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc
điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay
ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ
tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Và chính sách tiền tệ đã được sử dụng thế nào?
 Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, Ngân hang nhà nước đã triển
khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán
USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình
quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ
trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu
đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ
trên ngân hàng.
 Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu
được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp
nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ
với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ
thiết yếu của nền kinh tế.
2. Giá vàng tăng chóng mặt
Năm 2009 chứng kiến sự hỗn loạn giá trên thị trường vàng. Từ mức giá 18-19 triệu
đồng/lượng hồi đầu năm, tới cuối năm 2009 có thời điểm giá leo lên 29 triệu đồng
lượng, trước khi dao động 26-27 triệu đồng/lượng. Bỏ qua sự tác động của giá thế
11
giới thì giá vàng Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với giá vàng thế giới và dường như
trong những biến động này, các công ty kinh doanh vàng luôn là người hưởng lợi.
Đặc biệt, cùng với tâm lý đám đông, trở lại, giá vàng đột ngột giảm tới hơn 2 triệu
đồng/lượng dù giá thế giới không giảm.
 Tỷ giá tăng đồng tiền mất giá.
3. Thị trường chứng khoán phục hồi mạnh
Chịu tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường chứng
khoán đã sụt giảm xuống thấp nhất trong vòng 4 năm qua và Vn-Index lập mức đáy
235,5 điểm vào ngày 24/2.
Tuy nhiên, sau hàng hoạt các giải pháp kích thích kinh tế của Chính phủ, thị trường
chứng khoán đã có những chuỗi ngày thăng hoa và Vn-Index leo một mạch lên tới
gần 630 điểm hồi cuối tháng 10, trước khi giảm trở lại và trong những ngày cuối
năm 2009 dao động trong khoảng dưới 500 điểm.
Theo các chuyên gia, sự sụt giảm của chứng khoán cuối năm do tâm lý nhà đầu tư
bị ảnh hưởng bởi việc ngân hàng thắt chặt tín dụng, nhiều ngân hàng thu tiền về để
giảm dư nợ cho vay xuống. Hiện tại, giới đầu tư kỳ vọng nhiều vào sự phục hồi của
thị trường để đón đầu năm 2010, khi các ngân hàng, công ty tài chính công bố kế
hoạch giải ngân theo hạn mức tín dụng của năm mới. Tuy vậy, với hạn mức tín
dụng được Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho năm 2010 chỉ tăng 25% (so với mức
37% của năm 2010), sự đột phá trong giải ngân khó xảy ra và vì thế, nếu chỉ trông
chờ vào luồng tiền ngân hàng thì thị trường chứng khoán khó bùng nổ.
4. Bất động sản sôi động
12
Cùng với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản Việt Nam
cũng có những giai đoạn thăng hoa của quý II, quý III, trước khi trầm lắng trở lại
trong quý IV.
Sự nở rộ của các dự án bất động sản cũng gắn chặt với vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm, đứng thứ hai về quy mô thu
hút vốn trong năm 2009. Những dự án FDI lớn về bất động sản có thể kể đến là
Khu du lịch sinh thái bãi biển Rồng (Quảng Nam 4,15 tỷ USD), dự án Công ty
TNHH thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya (Đồng Nai - 2 tỷ USD); dự án Công ty
TNHH một thành viên Galileo Investment Group Việt Nam có tổng vốn đầu tư 1,68
tỷ USD…
Nhận xét chung:
 Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở lại. Tuy
nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp; tình trạng
nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải thiện; mức thâm hụt ngân
sách cao; lạm phát có nguy cơ tăng do giá cả một số mặt hàng nhất là nguyên nhiên
liệu đầu vào đang tăng và sẽ tiếp tục tăng khi kinh tế hồi phục.
Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng
nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng tín
dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết triệt
để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Như vậy, có thể thấy nền kinh tế Việt
Nam đã tạm qua giai đoạn suy giảm và đang bắt đầu hồi phục với không ít khó khăn
và nhiều nguy cơ đòi hỏi phải những nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải đối mặt
để ngăn chặn.
Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản và cũng là quan trọng nhất của chính
sách tiền tệ. Thông qua các công cự khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc,
nghiệp vụ thị trường mở … NHNN tác động điều tiết mức cung tiền nhằm ổn định
13
tiền tệ, tác động vào nên kinh tế hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vai trò to
lớn và ngày càng rõ rệt của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ là thực tế hoàn
toàn không thể phủ nhận.
III. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2010
Tình hình chung:
 Lãi suất cơ bản giữa nguyên là 8%.
 Lãi suất chiết khấu là 6%.
 Lãi suất tái cấp vốn là 8%.
Năm 2010 Nhà nước đã đặt trọng tâm vào mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,
ngăn ngừa lạm phát cao, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý gắn với mục tiêu
nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng cao hơn trong các
năm tiếp theo.
Biện pháp:
Ngày 6/1/2010 NHNN bơm 15000 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ thị Trường mở
Động thái này của NHNN làm cho lãi suất vay vốn giữa các Ngân hàng giảm mạnh,
kỳ hạn một tuần còn 11%/năm, vay qua đêm còn 8,5%/năm. Vì trước đó, lãi suất
liên Ngân hàng ở mức 16-17%/năm, có thời điểm vượt 20%/năm. Và điều này đã
làm cho tổng dư nợ tín dụng trong những tháng đầu năm tăng rất ít so với năm
2009. Cụ thể :Tháng 1 chỉ tăng 0,26%, tháng 2 tăng 1,14%, tháng 3 tăng 1,49% và
quý 1 chỉ tăng 3,52%, trong đó dư nợ tín dụng bằng VND tăng 0,57% so với tháng
12/2009. Và mức tổng phương tiện thanh toán và mức tổng dư nợ tín dụng năm
2010 cũng được ngân hàng nhà nước kiềm chế ở mức 25% thấp hơn so với năm
2009 là 37,73%. Chỉ tiêu này được đặt ra nhằm kiểm soát mức độ lạm phát năm
2010 tiếp tục giữ ở mức một con số. Và nếu đi theo định hướng này ngân hàng
trung ương muốn đảm bảo rằng lãi suất năm 2010 không quá căng.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét