Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc đời cao đẹp và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Bác Hồ đã trở
thành “huyền thoại ngay từ khi Người còn sống” là niềm tự hào chung của
dân tộc ta và của nhân loại. Nhiều thập kỷ qua, đã có bao lời đành giá, ca ngợi
Người của các tổ chức quốc tế, của các chính khách và các nhà hoạt động
chính trị xã hội, của các nhà văn, các nhà báo, các nhà nghiên cứu…Ngoài ra,
cũng đã có nhiều cuộc Hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế được tổ chức,
hàng chục công trình nghiên cứu đồ sộ được tiến hành, hàng trăm cuốn sách,
hàng nghìn bài viết của các nhà khoa học… nhằm tìm hiểu ngày một đầy đủ
hơn về một con người mà tên gọi và cuộc đời đã trở thành hình ảnh của dân
tộc, và sự nghiệp đã trở thành biểu tượng của thời đại. Song có lẽ tất cả những
điều ấy còn chưa đủ để trả lời cho câu hỏi của một nhà thơ: “Vì sao trái đất
nặng ân tình. Nhắc mãi tên người – Hồ Chí Minh”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hình mẫu tuyệt vời về sự vận dụng một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam.
Người đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội nhờ có sự giác ngộ
chủ nghĩa Mác – Lênin và nắm bắt được xu thế tất yếu của thời đại. Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người đã khẳng định không phải một lần rằng, chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề
độc lập dân tộc, mới có thể mang lại tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân
dân, mới xóa bỏ vĩnh viễn áp bức, bóc lột và nô dịch, mới giải quyết tận
gốc vấn đề giải phóng con người, giải phóng xã hội. Lựa chọn con đường
xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã mở
đường cho sự phát triển mới của nước ta, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ
đạo của cách mạng vô sản.
1
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991 của Đảng nêu rõ: “Nắm vững độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước
ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”.
Nhìn lại 20 năm đổi mới, trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp
hành Trung ương tại Đại hội X, Đảng ta khẳng định rõ: “Trong quá trình
đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không
phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn, và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới
không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư
tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”[7, 70]. Như
vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chính trị không thay
đổi, dù trong bất cứ giai đoạn nào, hoàn cảnh nào của cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, cả nước đang đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
vẫn giữ nguyên tính cấp thiết của nó.
Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong công cuộc
đổi mới đất nước hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là một vấn đề khá quen thuộc. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Như công trình nghiên cứu của các tác
2
giả: Nguyễn Bá Linh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh – độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vũ Đình Hòe, Bùi Đình
Phong (đồng chủ biên) (2010), Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Bá Linh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh – độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã làm rõ tư tưởng
độc lập dân tộc là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của cách mạng Việt
Nam, thêm vào đó là những vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Gần đây nhất là công trình Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thuộc chương trình khoa học cấp bộ
trọng điểm: Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay giai đoạn 2008 –
2009 của Vũ Đình Hòe và Bùi Đình Phong (đồng chủ biên) đã tập trung
làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc là cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do của
dân tộc Việt Nam. Quá trình hình thành hệ thống quan điểm của Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc bắt đầu hình
thành từ khi Người ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác – Lênin gắn với quá trình hoạt động thực tiễn sôi nổi, phong
phú, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc mang bản
chất cách mạng và khoa học, soi sáng con đường sự nghiệp đấu tranh giành
độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam, từ cách mạng tháng Tám năm
1945 qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại hai đế quốc to là Pháp
và Mỹ, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tư tưởng xuyên
suốt như triết lý phát triển xã hội Việt Nam của Hồ Chí Minh là trong hoàn
cảnh nước thuộc địa thì nhiệm vụ trước tiên là đấu tranh giành cho kỳ được
độc lập dân tộc. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Đề tài tập trung phân tích hệ
3
thống quan điểm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, lấy đó làm cơ sở lý
luận xây dựng và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Dưới ánh sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam từ năm
1954 trở đi, trước hết là ở miền Bắc, đã từng bước giành được những thắng
lợi có ý nghĩa lịch sử. Từ năm 1954 đến năm 1964, sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc dưới ánh sáng tư tưởng và sự chỉ đạo trực tiếp của
Hồ Chí Minh, đất nước, xã hội và con người đều đổi mới. Những thành tựu
to lớn của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã khẳng định cách mạng
xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thế giới đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn còn nguyên giá trị và
nóng hổi tính thời sự.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước,
chúng tôi tập trung nghiên cứu sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam
về tư tưởng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí
Minh trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, thể hiện rõ nhất đó là độc
lập về chính tri – kinh tế, về văn hóa, và về đối ngoại, đồng thời là cơ sở để
Đảng ta giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích: Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
- Làm rõ sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam về tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới nước ta
hiện nay.
4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Về phương pháp nghiên cứu, đề tài có sử dụng nhất quán các phương
pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử, khái quát hóa, hệ
thống hóa, so sánh…
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần nghiên cứu làm phong phú thêm tư liệu tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là
làm rõ sự vận dụng của Đảng ta về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đề tài có thể làm tài liệu
tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 2
chương, 5 tiết
5
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Truyền thống văn hóa dân tộc
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam, thật
hiếm có những thời kỳ hòa bình lâu dài mà đó là những cuộc đấu tranh liên
tiếp chống bọn xâm lược bên ngoài để bảo vệ nền độc lập của đất nước,
những cuộc nổi dậy của nông dân chống bọn phong kiến trong nước. Vì
vậy dân tộc Việt Nam luôn có ý thức giữ nước, luôn luôn sẵn sàng đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc.
Những cố gắng lớn lao của nhân dân ta từ thể kỷ này sang thể kỷ
khác nhằm chinh phục thiên nhiên và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược để
sống còn, để dựng nước và giữ nước, để đưa đất nước phát triển đã tôi
luyện nên những truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường, đoàn kết và
thống nhất, độc lập và tự chủ, yêu lao động và sáng tạo, bền bỉ và lạc quan.
Bởi vậy, chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc Việt
Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước” [35, 484 - 485].
Tới giữa thể kỷ XIX, xã hội Việt Nam trải qua những thay đổi lớn
lao. Để bảo vệ những quyền lợi ích kỷ của giai cấp mình, tập đoàn phong
kiến Việt Nam, mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn, đã đầu hàng và thừa
nhận sự đô hộ của thực dân Pháp. Có thể nói, giai cấp phong kiến Việt
Nam đã không dám đi cùng với nhân dân, phát động nhân dân kháng chiến
6
để bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Thời kỳ đó, giai cấp phong kiến
Việt Nam càng bộc lộ rõ hơn sự thối nát và bản chất phản động của nó.
Từ một quốc gia độc lập, thống nhất, có chủ quyền, Việt Nam biến
thành một nước thuộc địa, bị chia cắt và tên gọi cũng bị xóa đi trên bản đồ
thế giới. Trong bài báo viết năm 1924 về Cách mạng Nga và các dân tộc
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã viết rằng: “con đỉa thực dân Pháp” thò ra hai cái
vòi, vừa hút máu nhân dân lao động Pháp vừa hút máu nhân dân Việt Nam.
Dưới ách áp bức và bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và bọn phong kiến
tay sai, nhân dân Việt Nam bị biến thành nô lệ của chủ nghĩa tư bản Pháp.
Triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp, mặc dù bị khủng
bố và đàn áp khốc liệt nhưng nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục cầm vũ khí tiến
hành cuộc chiến đấu anh dũng chống lại những kẻ cướp nước và những tên
bán nước. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp lan rộng ra khắp cả
nước. Với ý chí nhất định không chịu làm nô lệ, không chịu khuất phục nhân
dân ta đã anh dũng đứng lên chống thực dân, phong kiến dành độc lập cho
dân tộc. Tuy nhiên, tất cả các phong trào yêu nước lúc bấy giờ đều thất bại.
Thiên tài của Nguyễn Ái Quốc chính là ở chỗ, vượt lên tầm nhìn bị
ràng buộc của ý thức hệ Nho giáo hay hệ tư tưởng cải lương tư sản của các
bậc sĩ phu, những nhà yêu nước đương thời, Người đã mang đến cho dân
tộc Việt Nam sự thức tỉnh mới mang tính thời đại. Là người yêu nước,
thương dân, Nguyễn Ái Quốc sớm nhận ra sự giả dối giữa lời nói và hành
động của những kẻ nhân danh văn minh để khai hóa cho dân tộc mình.
Người hướng tới việc tìm cho ra nguồn gốc của mọi nỗi đau của dân tộc từ
bản chất kẻ thù - chủ nghĩa thực dân xâm lược. Trong quá trình tìm đường
cứu nước, cứu dân, từ khảo nghiệm, đúc kết kinh nghiệm trong nước và thế
giới, Người đã thâu tóm lý luận thời đại để hình thành nên một chiến lược,
một đường hướng cách mạng có khả năng giải quyết những đòi hỏi khách
quan đang đặt ra lúc bấy giờ của dân tộc Việt Nam. Theo đó, Người khẳng
7
định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [23, 314]. Đó là con đường đấu tranh lâu
dài, gian khổ và phức tạp, đòi hỏi tất cả mọi người phải kiên định: “Trong
cuộc đấu tranh một mất một còn giữa một bên là giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và các dân tộc bị áp bức với một bên là bọn đế quốc cùng bè
lũ tay sai bán nước, bọn phong kiến địa chủ và tư sản phản động, nhân dân
các nước cần có tinh thần cách mạng triệt để, luôn luôn giương cao ngọn cờ
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết
đấu tranh đến cùng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ đó Người
xác định con đường phát triển của cách mạng nước ta gắn độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội mà trong Cương lĩnh chính trị, Người viết: “Làm cách
mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Về phương diện thực tiễn – lịch sử, khẳng định của Hồ Chí Minh về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được đặt trên một nền hiểu biết sâu rộng
lịch sử của các cuộc cách mạng đã từng diễn ra trên thế giới. Trong tác
phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh chia các cuộc cách mạng đó
thành ba loại: A. Tư bản cách mệnh (như cách mệnh Pháp năm 1789), B.
Dân tộc cách mệnh (như cách mệnh Ý 1859), C. Giai cấp cách mệnh (như
cách mệnh Nga 1917). Để đánh giá vị trí lịch sử và chức năng xã hội của
các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, đặc biệt là cách mạng Pháp 1789 và
cách mạng Mỹ 1776, Hồ Chí Minh nhìn thấy và phát hiện rằng: Các cuộc
cách mạng đó đều là cách mạng tư sản và là những cuộc cách mạng không
triệt để, chẳng hạn “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm
nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ
8
hai”[21, 270]. Hoặc như cách mạng Pháp 1789 mặc dầu được xem là một
cuộc cách mạng tư sản điển hình, nhưng “cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa
là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân chủ,
kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa.
Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu cách mệnh
lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”[21, 280]
Trong quan niệm của Hồ chí Minh, tiêu chí hàng đầu để đánh giá tính
triệt để của một cuộc cách mạng không phải là những lý tưởng, khẩu hiệu
được nêu ra, mà là quy mô giải phóng quần chúng lao động bị áp bức. Cách
mạng dân chủ tư sản, do bản chất của nó, chỉ là sự thay thế một hình thức áp
bức, bóc lột khác, đại bộ phận người lao động vẫn sống kiếp ngựa trâu. Logíc
phát triển khách quan của lịch sử tất yếu dẫn đến một cuộc cách mạng khác
nhằm xóa bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản, được quần chúng lao động từ địa
vị làm thuê thành người chủ chân chính thật sự của xã hội. Do những nhu cầu
nội tại khách quan, cách mạng Việt Nam không và sẽ không thể lặp lại những
vết lăn của cách mạng Mỹ 1776 và cách mạng Pháp 1789.
Qua quá trình tìm tòi và khảo nghiệm, Hồ Chí Minh đã chọn cách
mạng tháng Mười Nga, rằng chỉ có cách mạng Nga 1917 chỉ rõ con đường
đi tới của cách mạng Việt Nam. Trong cái nhìn của Hồ Chí Minh, cách
mạng tháng Mười Nga là một cuộc cách mạng giai cấp, nằm trong dòng
chảy liên tục của quá trình giải phóng con người. Xét về bản chất, cách
mạng tháng Mười như là một sự nổi trội, vượt xa và khác hẳn các cuộc
cách mạng từng diễn ra trong lịch sử trước đó. Đúng như nhận định của Hồ
Chí Minh: “Trong thế giới bấy giờ chỉ có cách mạng Nga là thành công và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do,
bình đẳng thật, không phải bình đẳng và giả dối như đế quốc Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được Vua, tư bản, địa chủ,
rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm
9
nên cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc và tư bản trong thế giới” [21, 280].
Tính triệt để và nội dung nhân đạo của cách mạng tháng Mười sau này còn
được Hồ Chí Minh khẳng định lại. Nhờ cuộc cách mạng đó mà nhân dân
lao động đã làm chủ nước nhà, những dân tộc nhỏ yếu giành được độc lập,
ruộng đất trở về tay người cày.
Từ trong nội dung, cách mạng tháng Mười đồng thời giải quyết hàng
loạt các mâu thuẫn và thực hiện cùng một lúc sự nghiệp giải phóng giai cấp
và dân tộc, giải phóng lao động và con người – biến người nô lệ thành người
tự do. Nền dân chủ Xô viết với những thiết chế của mình đã vĩnh viễn xóa
bỏ những cơ sở kinh tế, đẻ ra tình trạng áp bức, bất công, bất bình đẳng xã
hội, thủ tiêu chế độ người bóc lột người. Từ đây con người được hoàn toàn
khẳng định với tư cách là chủ thể sáng tạo thực sự của lịch sử, các nhu cầu,
lợi ích của nó được thỏa mãn, phẩm giá được tôn trọng. Lý tưởng nhân đạo
“Vì con người, cho con người, do con người” được cách mạng tháng Mười
thực hiện một cách trọn vẹn trong đời sống thực tế và nâng lên một trình độ
mới: Chủ nghĩa nhân đạo hiện thực Cộng sản chủ nghĩa.
Sự so sánh về mặt lý luận và kinh nghiệm kiểm chứng lịch sử của
nhiều chế độ xã hội đương đại đã tạo cho sự lựa chọn con đường phát triển
cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh có sức nặng thuyết phục, dễ đi vào
lòng người. Chính sự so sánh này đã dẫn Hồ Chí Minh đến một nhận thức
không thể khác được: cách mạng Việt Nam muốn thực hiện một cách triệt
để không có con đường nào khác con đường cách mạng tháng Mười. Chủ
trương “làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản, là cả một quá trình nhận thức về lý luận và thực tiễn, suy
ngẫm và so sánh để rồi cuối cùng có một quyết định lựa chọn dứt khoát có
ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai của dân tộc.
10

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét