Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

PHƢƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TẠO KHOA HỌC

Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 5
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525







MỤC LỤC

I. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – NHỮNG KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU 6
1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu : 6
2. Phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu : 6
II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẠT HIỆU QUẢ 8
1. Trình tự các bƣớc cần tiến hành trong nghiên cứu khoa học 8
2. Các khó khăn thƣờng gặp phải và cách khắc phục 11
3. Những điều nên và không nên làm trong nghiên cứu khoa học 13
III. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA CÁ NHÂN 16
1. Giới thiệu 16
2. Các bƣớc giải quyết một vấn đề bài toán và áp dụng nguyên lý 16
3. Khái quát về các thuật toán, thuật giải, cấu trúc dữ liệu 17
3.1. Phƣơng pháp trực tiếp 17
3.2. Phƣơng pháp thử sai 25
3. 3 Phƣơng pháp Heuristic 30
3.4 Phƣơng pháp trí tuệ nhân tạo 36
IV. KẾT LUẬN 49










Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 6
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525


I. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – NHỮNG KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU

Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hƣớng vào việc tìm kiếm những điều
mà khoa học chƣa biết hoặc là phát hiện bản chất sƣ vật, phát triển nhận thức khoa học về
thế giới hoặc là sáng tạo phƣơng pháp mới và phƣơng tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế
giới.
Có nhiều cách phân loại nghiên cứu khoa học. Ở đây ta đề cập đến phân loại theo
chức năng nghiên cứu và theo tính chất của sản phẩm tri thức khoa học thu đƣợc nhờ kết
quả nghiên cứu.
1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu :
Nghiên cứu mô tả, là những nghiên cứu nhằm đƣa ra một hệ thống tri thức về
nhân dạng sƣ vật, giúp con ngƣời phân biệt đƣợc sự khác nhau, về bản chất giữa sự
vật này với sự vật khác. Nội dung mô tả có thể bao gồm mô tả hình thái, động thái,
tƣơng tác; mô tả định tính tức là các đặc trƣng về chất của sự vật; mô tả định lƣợng
nhằm chỉ rõ các đặc trƣng về lƣợng của sự vật.
Nghiên cứu giải thích, là những nghiên cứu nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến
sự hình thành và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật. Nội dung của giải
thích có thể bao gồm giải thích nguồn gốc; động thái; cấu tr1uc; tƣơng tác; hậu quả;
quy luật chung chi phối quá trình vận động của sự vật.
Nghiên cứu dự báo, là những nhiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự vật
trong tƣơng lai. Mọi dự báo đều phải chấp nhận những sai lệch, kể cả trong nghiên
cứu tự nhiên và xã hội. Sự sai lệch trong kết quả dự báo có thể do nhiều nguyên
nhân : sai lêch khách quan trong kết quả quan sát: sai lệch do những luận cứ bị biến
dạng trong sự tác động của các sự khác; mội trƣờng cũng luôn có thể biến động, …
Nghiên cứu sáng tạo, là nghiên cứu nhằm làm ra một sự vật mới chƣa từng tồn
tại. Khoa học không bao giờ dừng lại ở mô tả và dự báo mà luôn hƣớng vào sự sáng
tạo các giải pháp cải tạo thế giới.
2. Phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu :
Theo tính chất của sản phẩm, nghiên cúu đƣợc phân loại thành nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng và ghiên cứu triển khai.
Nghiên cứu cơ bản (Fundamental research) là những nghiên cứu nhằmphát hiện
thuộc tính, cấu trúc, động thái các sự vật, tƣơng tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 7
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

giữa sƣ vật với các sƣ vật khác. Sản phẩm nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá,
phát hiện, phát minh, dẫn đến viêc hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng
quát, ảnh hƣởng đến một hoặc nhiều lĩng vực khoa học, chẳng hạn Newton phát minh
định luật hấp dẫn vũ trụ; Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dƣ. Nghiên cứu cơ bản
đƣợc phân thành hai loại : nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản định
hƣớng.
 Nghiên cứu cơ bản thuần túy, cò đƣợc gọi là nghiên cứu cơ bản tự do hoặc
nghiên cứu cơ bản không định hƣớng, là những nghiên cứu về bản chất sự vật để
nâng cao nhận thức, chƣa có hoặc chƣa bàn đến ý nghĩa ứng dụng.
 Nghiên cứu cơ bản định hƣớng, là những nghiên cứu cơ bản đã dự kiến
trƣớc mục đích ứng dụng. các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã
hội, … đều có thể xem là nghiên cứu cơ bản định hƣớng. Nghiên cứu cơ bản định
hƣớng đƣợc phân chia thành nghiên cứu nền tảng (background research) và nghiên
cứu chuyên đề (thematic research).
 Nghiên cứu nền tảng, là những nghiên cứu về quy luật tổng thể của một hệ
thống sự vật. Hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và các điều kiện thiên nhiên
nhƣ địa chất, nghiên cứu đại dƣơng, khí quyển, khí tƣợng; điều tra cơ bản về kinh
tế, xã hội đều thuộc loại nghiên cứu nền tảng.
 Nghiên cứu chuyên đề, là nghiên cứu về một hiên tƣợng đặc biệt của sự vật,
ví dụ trạng thái plasma của sự vật, bức xạ vũ trụ, gien di truyền. Nghiên cứu
chuyên đề vừa dẫn đến hình thành những cơ sở lý thuyết, mà còn dẫn đến những
ứng dụng có ý nghĩa thực tiễn.

Nghiên cứu ứng dụng (Applied research) : là sự vận dụng quy luật đƣợc phát hiện
từ nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật, tạo ra những nguyên lý mới về các giải
pháp và áp dụng chúng vào sản xúât và đời sống. Giải pháp đƣợc hiểu theo nghĩa rộng
có thể là một giải pháp về công nghệ, về vật liệu, về tổ chức và quản lý. Một số giải
pháp công nghệ có thể trở thành sáng chế. Kết quả nghiên cứu ứng dụng thì chƣa ứng
dụng đƣợc, để có thể đƣa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào sử dụng thì còn phải tiến
hành một loại hình nghiên cứu khác có tên gọi lả triển khai.

Nghiên cứu triển khai (Development research) : còn gọi là nghiên cứu triển khai
thực nghiệm hay triển khai thực nghiệm kỹ thuật, là sự vận dụng các quy luật (thu
đƣợc từ nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý (thu đƣợc từ nghiên cứu ứng dụng) để
đƣa ra các hình mẫu với những tham số khả thi về kỹ thuật. Kết quả nghiên cứu triển
khai thì chƣa triển khai đƣợc: sản phẩm của triển khai chỉ mới là những hình mẫu khả
thi về kỹ thuật, nghĩa là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật, để áp dụng đƣợc còn
phảitiến hành nghiên cứu những tính khả thi khác nhƣ khả thi tài chính, khả thi kinh
tế, khả thi môi trƣờng, khả thi xã hội. Hoạt động triển khai bao triển khai trong phòng
thí nghiệm và triển khai bán đại trà.
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 8
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

 Triển khai trong phòng thí nghiệm : là loại hình triển khai nhằm khẳng định
kết quả sao cho ra đƣợc sản phẩm, chƣa quan tâm đến quy mô áp dụng. trong
những nghiên cứu về công nghệ, loại hình này đƣợc thực hiện trong các phòng
thí nghiệm, labô công nghệ, nhà kính. Trên một quy mô lớn hơn, hoạt động triển
khai cũng đƣợc tiến hành trong các xƣởng thực nghiệm thuộc viện hoặc xí
nghiệp sản xuất.
 Triển khai bán đại trà : trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ
thuật và khoa học công nghệ là một dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết
về hình mẫu trên một quy mô nhất định, thƣờng là quy mô áp dụng bán đại trà,
hay quy mô bán công nghiệp.
Khái niệm triển khai đƣợc áp dụng cả trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật và xã
hội; trong các nghiên cứu về khoa học kỹ thuật, hoạt động triển khai đƣợc áp dụng khi
chế tạo một mẫu công nghệ mới hoặc sản phẩm mới; trong các nghiên cứu khoa học xã
hội có thể lấy ví dụ về thử nghiệm một phƣơng pháp giảng dạy ở các lớp thí điểm; chỉ
đạo thí điểm một mô hình quản lý mới tại một cơ sở đƣợc lựa chọn.
Toàn bộ các loại hình nghiên cứu và mối liên hệ giữa các loại hình nghiên cứu đƣợc
trình bày trong sơ đồ bên dƣới. Sự phân chia loại hình nghiên cứu nhƣ trên đây đƣợc áp
dụng phổ biến trên thế giới. Phân chia là để nhận thức rõ bản chất của nghiên cứu khoa
học, để có cơ sở lập kế hoạch nghiên cứu, cụ thể hóa các cam kết trong hợp đồng nghiên
cứu giữa các đối tác. Tuy nhiên trên thực tế, trong một đề tài có thể tồn tại cả ba loại hình
nghiên cứu, hoặc tồn tại hai trong ba loại hình nghiên cứu.


II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẠT HIỆU QUẢ

1. Trình tự các bƣớc cần tiến hành trong nghiên cứu khoa
học

Rất nhiều nghiên cứu viên gặp khó khăn trong giai đoạn đầu nghiên cứu vì không
biết làm gì trƣớc, làm gì sau. Do vậy họ thƣờng bố trí công việc nghiên cứu lôn xộn,
không có tổ chức. Điều này trái ngƣợc hoàn toàn với yêu cầu của nghiên cứu khoa
học là phải đƣợc tổ chức một cách khoa học, bài bản. Dẫu rằng tùy từng nghiên cứu
cụ thể mà sẽ có các bƣớc tiến hành cụ thể, nhƣng tác giả cho rằng ngƣời nghiên cứu
nên tiến hành một số bƣớc bắt buộc theo trình tự thể hiện trên hình :

Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 9
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525



Bƣớc 1: Mô tả các khó khăn trên thực tế

Trong thực tế khi gặp khó khăn thì lúc đó mới cần tiến hành nghiên cứu khoa học
với mục đích là giải quyết các khó khăn đó. Vậy có thể nói việc mô tả các khó
khăn đang gặp phải chính là sự mở đầu cho một nghiên cứu. Có rất nhiều nghiên
cứu không chỉ ra đƣợc các khó khăn hiệu hữu vì vậy tác giả không biết đƣợc tại
sao những nghiên cứu này lại đƣợc tiến hành và nhằm mục đích gì.

Bƣớc 2: Tổng quan về các nghiên cứu liên quan

Đây là thời gian tìm hiểu xem vấn đề dự định nghiên cứu đã và đang đƣợc nghiên
cứu bởi các học giả khác chƣa, ở mức độ nào qua đó có thể học những điều hay và
tránh đƣợc việc lặp lại trong nghiên cứu trƣớc. Tuy nhiên tác giả thấy có rất nhiều
nghiên cứu viên không tìm hiểu về các nghiên cứu đã thực hiện mà bắt tay vào
nghiên cứu ngay, dẫn đến việc không có một cái nhìn tổng quan về cần nghiên
cứu.

Bƣớc 3: Xác định mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu là những dự định đặt ra để giải quyết đƣợc các khó khăn đã
chỉ ra ở bƣớc 1. Nghiên cứu viên phải luôn bám theo các mục tiêu đã đề ra trong
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 10
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

suốt quá trình và phải hoàn thành chúng trƣớc khi nghiên cứu đƣợc khép lại. Các
nghiên cứu hiện nay thƣờng thể hiện rất rõ ràng phần này

Bƣớc 4: Phƣơng pháp nghiên cứu

Đây là phần chỉ ra hƣớng nghiên cứu mà nghiên cứu viên muốn tiến hành để đạt
đƣợc mục tiêu đề ra trong bƣớc 3. Thông thƣờng, các phƣơng pháp thu thập dữ
liệu hay thí nghiệm và phân tích chúng phải đƣợc thể hiện rõ. Ngoài ra, các giả
thuyết và phạm vi nghiên cứu, kinh phí và thời gian cần thiết, các đề xuất dự định,
… cũng cần phải đƣợc chỉ ra một cách rõ ràng.

Bƣớc 5: Dữ liệu thực tế hoặc giả định cụ thể

Dữ liệu là phần rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Chúng có thể đƣợc thu
thập qua quá trình điều tra tại hiện trƣờng hoặc là dữ liệu giả định thu đƣợc từ thí
nghiệm, mô phỏng. Những dữ liệu này có thể chỉ ra những phát triển của thực tế
trong quá khứ và hiện tại, qua đó có thể dự đoán tƣơng lai, so sánh với lý
thuyết,… Thông thƣờng, giai đoạn thu thập dữ liệu tiêu tốn rất nhiều thời gian và
tiền bạc của ngƣời nghiên cứu và sự chính xác của dữ liệu sẽ ảnh hƣởng lớn đến
kết quả cuối cùng của nghiên cứu.

Bƣớc 6: Phân tích dữ liệu hoặc chạy chƣơng trình

Đến đây nghiên cứu khoa học sẽ có 2 hƣớng đi. Một là phân tích các dữ liệu thu
thập đƣợc để có các kết luận cho những điều đã và đang xẩy ra trong thực tế, từ đó
có các đề xuất cho tƣơng lai. Một cách khác là lập ra các chƣơng trình máy tính để
mô phỏng, tính toán lý thuyết dựa vào hoặc so sánh với các dữ liệu thực tế. Phần
này thƣờng liên quan tới các chuyên môn sâu nên chỉ có những ngƣời có cùng lĩnh
vực nghiên cứu mới hiểu và quan tâm đến, còn độc giả thông thƣờng nói chung
không chú ý đến.

Bƣớc 7: Phát hiện hoặc đề xuất cái mới

Thƣờng mỗi nghiên cứu khoa học sẽ tiến đến kết thúc sau khi một vài phát hiện
hoặc đề xuất mới đƣợc đƣa ra. Những điều mới này chính là kết quả cuối cùng của
nghiên cứu có thể áp dụng làm cho thực tế hiện tại và tƣơng lai tốt hơn và phải
thỏa mãn đƣợc các mục tiêu nghiên cứu đề ra trong bƣớc 3. Nhiều nghiên cứu
không thể hiện rõ phần này sẽ gây khó hiểu cho ngƣời đọc. Tác giả đề nghị phần
này phải tách ra riêng biệt, không nên gộp vào phần phân tích dữ liệu hoặc phần
kết luận.

Bƣớc 8: Kết luận

Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 11
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

Đây là phần cuối cùng và đƣợc độc giả chú ý đến trƣớc tiên để xem kết quả của
nghiên cứu rồi sau đó mới đến các phần khác nếu có quan tâm. Từ “kết luận” cũng
đã thể hiện rõ ý nghĩa của nó. Từ “kết” có nghĩa là kết thúc, tổng kết. Ngƣời
nghiên cứu phải đúc kết lại toàn bộ nghiên cứu theo một trình tự khoa học và ngắn
nhất để ngƣời đọc có thể hình dung tổng thể toàn bộ quá trình. Từ “luận” là bình
luận các kết quả thu đƣợc về thực tế nghiên cứu xem tốt hay xấu, thỏa mãn hay
chƣa thỏa mãn, … . Tác giả thấy đa phần các nghiên cứu chỉ chú trọng đến phần
“kết” và chƣa có phần “luận”.

Ngoài phần kết luận, các nghiên cứu nên có thêm các phần bổ trợ nhƣ đề xuất áp dụng
kết quả nghiên cứu vào thực tế, các nghiên cứu cần đƣợc tiến hành trong tƣơng lai, những
hạn chế của nghiên cứu, … . Các phần bổ trợ này dùng để nhấn mạnh phần nghiên cứu
chính, thể hiện tính khả thi và khả năng áp dụng kết quả đạt đƣợc để củng cố / làm tốt
hơn thực tế hiện tại và tƣơng lai.

2. Các khó khăn thƣờng gặp phải và cách khắc phục

Thông thƣờng, mọi nghiên cứu đều có khó khăn trong quá trình thực hiện do nhiều
nguyên nhân và ngƣời nghiên cứu phải nỗ lực giải quyết chúng để có đƣợc thành công
cuối cùng. Tác giả thống kê lại một số khó khăn điển hình trong nghiên cứu khoa học.

Mối quan hệ với thầy giáo hƣớng dẫn

Các giáo sƣ hƣớng dẫn thì mỗi ngƣời một tính, ngƣời thì khắt khe, ngƣời thì dễ dàng,
ngƣời thì chẳng để tâm đến sinh viên,… Nói chung họ là những ngƣời cá tính và nhiều
khi gây khó chịu cho sinh viên trong cuộc sống hàng ngày cũng nhƣ trong nghiên cứu.

Các giáo sƣ thì cũng là con ngƣời và có các tính cách khác nhau, nhƣng nói chung là họ
luôn thƣơng sinh viên, chỉ có cách dạy bảo là khác nhau thôi. Khi vƣợt qua đƣợc rào cản
trong các yêu cầu và tính cách của giáo sƣ hƣớng dẫn cũng chính là lúc ta đã học đƣợc
trƣờng phái nghiên cứu của họ.

Khó khăn trong thu thập dữ liệu thực tế

Các dữ liệu thực tế trong quá khứ và hiện tại thƣờng rất khó xin đƣợc, đặc biệt là các số
liệu nhạy cảm, có liên quan tới các cơ quan khác.

Để vƣợt qua khó khăn này, việc đầu tiên là phải nghĩ đến điều này ngay trong giai đoạn
thiết kế cách thu thập dữ liệu để tránh các dữ liệu không thể có đƣợc. Nghĩa là nghiên
cứu chỉ tập trung đến các dữ liệu có sẵn hoặc có thể thu thập đƣợc. Ngoài ra, nguồn dữ
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 12
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

liệu có sẵn không chỉ một nơi mà thƣờng có ở nhiều nơi khác nhau. Vì vậy ngƣời nghiên
cứu cần đa dạng cách thu thập dữ liệu, tập trung vào nhiều nguồn khác nhau.

Không xác định đƣợc hƣớng nghiên cứu

Nhiều ngƣời nghiên cứu phải loay hoay tìm hƣớng nghiên cứu trong thời gian dài
hoặc phải đổi đề tài và hƣớng nghiên cứu sau một thời gian. Điều này làm ảnh hƣởng đến
toàn bộ quá trình nghiên cứu do thời gian và nguồn lực cho phép bị giảm đi.

Trƣớc khi bắt tay vào nghiên cứu cần phải đọc thật nhiều các nghiên cứu có sẵn về chủ
đề liên quan để có đƣợc hiểu biết tổng quan về lĩnh vực đấy. Phần phƣơng pháp nghiên
cứu phải đƣợc chú ý đúng mức để chỉ ra các bƣớc tuần tự thực hiện của đề tài với mục
đích đạt đƣợc mục tiêu đề ra ban đầu. Việc tham khảo, tranh luận với giáo sƣ hƣớng dẫn,
đồng nghiệp nghiên cứu, bạn bè, … cũng rất quan trọng để củng cố, chỉnh sửa hƣớng
nghiên cứu cho phù hợp.

Đăng báo không đƣợc chấp nhận hoặc phải đợi lâu

Nhiều nghiên cứu viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc đăng báo để đủ tiêu chuẩn
tốt nghiệp. Thông thƣờng yêu cầu là bài báo quốc tế cũng tƣơng đối khó cho nhiều ngƣời
vì nhiều lý do. Bài báo của hội thảo thì dễ hơn và nhiều ngƣời dễ dàng có đƣợc.

Thƣờng các yêu cầu đầu tiên là phải đúng chủ đề của tạp chí đấy. Trƣớc khi gửi bài đi
đăng thì cần phải kiểm tra xem bài báo có đúng chủ đề yêu cầu không, đã có ai đăng
nghiên cứu tƣơng tự chƣa, v.v… Một lời khuyên là nên gửi bài đến tạp chí càng sớm
càng tốt vì quá trình xem xét thƣờng mất ít nhất là 6 tháng đến 1 năm. Ngoài ra nên viết
bài theo các hƣớng khác nhau và gửi cho nhiều tạp chí vì tiêu chí lựa chọn của các tạp chí
thƣờng khác nhau nên nếu may mắn thì sẽ đƣợc một tạp chí chấp nhận cho đăng.

Khả năng tiếng Anh kém

Ngƣời Việt nói chung khả năng tiếng Anh kém hơn các nƣớc khác nên cũng gây ra
nhiều khó khăn trong nghiên cứu và viết báo vì hầu hết tài liệu tham khảo hoặc các hội
thảo, tạp chí đều yêu cầu tiếng Anh cả.

Nên tìm kiếm những ngƣời nói tiếng Anh gốc để giúp chỉnh sửa bài viết. Một cách
nữa là lựa chọn những đoạn viết trong các sách báo đã đăng để đƣa vào bài viết của mình,
nhƣng sử dụng cho hợp lý với hoàn cảnh và chủ đề nghiên cứu. Một lời khuyên nữa là
câu văn cần đơn giản vì trong nghiên cứu khoa học một đoạn viết chỉ có mục đích truyền
đi ý nghĩa nghiên cứu. Không nên để một câu văn là tập hợp của vài câu văn, nghĩa là chỉ
nên có 1 chủ ngữ - vị ngữ và không nên dài quá 3 dòng viết.

Bị áp lực, quá lo lắng, mất ngủ trong giai đoạn đầu nghiên cứu
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 13
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525


Nhiều ngƣời nghiên cứu thƣờng bị áp lực trong nghiên cứu và ảnh hƣởng tới cuộc
sống hàng ngày nhƣ mất ngủ, lo lắng ra mặt, trầm cảm,… Những điều này nếu xảy ra
trong thời gian dài và lặp lại nhiều lần dễ gây ra các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý.

Lời khuyên là dù có lo lắng thêm nữa thì việc nghiên cứu cũng không thể tiến triển
thêm đƣợc. Vì vậy khi có biểu hiện của áp lực nghĩa là nghiên cứu đang đi vào hƣớng bế
tắc. Lúc này nên dừng nghiên cứu trong một thời gian ngắn để nghỉ ngơi, chơi thể thao,
dành thời gian cho gia đình và bạn bè,… để có thể tạm thời quên đi các khó khăn hiện tại.
Khi đã vƣợt qua giai đoạn áp lực này thì dành thời gian kiểm tra tổng thể nghiên cứu để
xác định lại hƣớng đi cho đúng hơn và có thể xin ý kiến của giáo sƣ hƣớng dẫn.

3. Những điều nên và không nên làm trong nghiên cứu khoa
học

Khi tiến hành nghiên cứu khoa học, việc định hƣớng ban đầu và chỉnh sửa hƣớng đi là
rất quan trọng cho thành công cuối cùng. Có nhiều điều nên làm nhƣng cũng có nhiều
điều không nên làm. Tác giả đề xuất các điểm quan trọng về việc cần làm gì và không
cần làm gì.

Trung thực trong nghiên cứu

Nghiên cứu khoa học phải phản ánh trung thực và đầy đủ các kết quả, phát hiện, dẫu
rằng chúng có thể không giống với các dự định ban đầu. Việc che đậy những thiếu sót,
sai lầm hay sửa đổi dữ liệu, kết quả phải tuyệt đối không bao giờ đƣợc cho phép. Trích
dẫn, số liệu lấy từ các nghiên cứu khác cần phải chỉ rõ nguồn gốc để thể hiện chúng là tài
liệu tham khảo, không phải kết quả của nghiên cứu này và cũng là cách tôn trọng những
nghiên cứu trƣớc.

Ứng xử có đạo đức trong nghiên cứu

Có những điều nếu ngƣời nghiên cứu làm hoàn toàn không phạm luật nhƣng không có
tính đạo đức nghề nghiệp, vì vậy nên tránh nếu có thể. Phạm phải điều cấm này có thể vô
tội trƣớc pháp luật, nhƣng sẽ bị lên án, coi thƣờng bởi đồng nghiệp, bạn bè và bị day dứt
lƣơng tâm. Điều này sẽ làm ảnh hƣởng tới uy tín của ngƣời nghiên cứu, thái độ nghi ngờ
và thiếu hợp tác của mọi ngƣời, dẫn đến việc gặp phải nhiều khó khăn, ảnh hƣởng tới
chất lƣợng của các nghiên cứu sau này.

Chọn đề tài nghiên cứu hợp lý

Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 14
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

Nên tiến hành các nghiên cứu có tính thực tiễn cao, có thể áp dụng vào thực tế để tạo
ra lợi ích cho bản thân và xã hội. Không nên tiến hành những nghiên cứu vô bổ, tốn kém
nhƣng lợi ích thấp, mục đích để đánh bóng tên tuổi chứ không có ý nghĩa khoa học và
kinh tế,… Thông thƣờng sức nghiên cứu đến mức nào thì nên tiến hành nghiên cứu ở
mức đấy mà thôi, theo kiểu “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, đừng tiến hành những dự án quá
tham vọng vƣợt quá khả năng, thời gian và nguồn tài chính cho phép. Tác giả đã thấy
nhiều ngƣời chọn đề tài mà kết quả chỉ có thể áp dụng sau 20-50 năm nữa do hạn chế về
kinh tế, xã hội và kỹ thuật. Có nghiên cứu lại đề xuất các ý tƣởng mới với các yêu cầu
thực hiện tốn kém hơn nhiều lần so với giải pháp đã có hiện tại. Nhiều nghiên cứu sinh
lại thực hiện đề tài quá tham vọng, dẫn đến việc không hoàn thành đúng hạn và phải gia
hạn, tốn kém thời gian và tiền bạc.

Thời gian nghiên cứu

Hiện vẫn còn chƣa rõ ràng về việc tiêu tốn thời gian thế nào là hợp lý trong nghiên
cứu khoa học. Nhiều ngƣời dành quá nhiều thời gian cho nghiên cứu do vậy phải giảm
thời gian nghỉ ngơi. Ngƣợc lại, có nhiều ngƣời dành rất ít thời gian cho nghiên cứu.
Trƣớc tiên, tác giả cho rằng một nghiên cứu cần phải đƣợc tiến hành liên tục và không có
nhiều gián đoạn dài để tránh tốn thời gian cho việc tái khởi động và xem xét lại các phần
đã làm. Dẫu rằng chƣa có nghiên cứu chính thức nào trong nghiên cứu, nhƣng có thể coi
nhƣ giống thời gian làm việc của ngƣời lao động và đã đƣợc kiểm chứng qua nhiều thời
đại. Thời gian nghiên cứu thì khoảng 8-10 tiếng 1 ngày và 5 ngày 1 tuần là hợp lý. Ngoài
ra, ngƣời nghiên cứu còn cần thời gian cho ngủ 8 tiếng, các sinh hoạt cá nhân và giải trí 8
tiếng.

Tránh hao phí thời gian vô ích

Quãng đời nghiên cứu rất ngắn nên tránh hao phí thời gian nghiên cứu (8 tiếng 1
ngày) vào những việc vô ích. Nhiều ngƣời tốn quá nhiều thời gian trên phòng nghiên cứu
cho các việc vô bổ nhƣ chat, xem phim, ngủ, nghe nhạc, tán chuyện, … dẫu rằng những
việc đó có thể làm vào 16 tiếng còn lại trong ngày. Một số ngƣời khác lại hay bị gián
đoạn nghiên cứu do phải ra ngoài để làm thêm, hoạt động xã hội, du lịch,… Những thời
gian vô ích đấy cần phải tránh trong thời gian 8 tiếng nghiên cứu. Cần nhớ rằng bạn là
ngƣời nghiên cứu nên mục đích đầu tiên và quan trọng nhất là nghiên cứu, các hoạt động
khác chỉ là phụ mà thôi. Ngoài ra, ngƣời nghiên cứu đã có 16 tiếng 1 ngày và 2 ngày cuối
tuần để giải quyết các hoạt động yêu cầu của bản thân và xã hội.

Công bố kết quả nghiên cứu

Các kết quả nghiên cứu cần đƣợc công bố nhiều nhất và sớm nhất có thể. Đây chính
là cách thông báo cho ra công chúng những gì đề tài nghiên cứu đã thực hiện để nhận
đƣợc các phê bình, nhận xét phục vụ cho việc hoàn thiện nghiên cứu hơn nữa. Việc công
bố rộng rãi là cách chứng minh sự trung thực, không cóp nhặt từ nghiên cứu khác hoặc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét