Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Khảo nghiệm một số giống lúa chất lượng cao có triển vọng vụ Đông Xuân 2009 – 2010 tại Vĩnh Thủy – Vĩnh Linh – Quảng trị

được trồng ở Kerala (Ấn Độ) thấp hơn mặt biển hoặc bằng mặt biển và cũng
được trồng ở vĩ độ cao 2000 m ở Kasmia và Nêpan (Ấn Độ). Nó có thể trồng
trên cạn, dưới nước sâu trung bình hoặc nước sâu khoảng 1,5 – 5m [17].
Ở Việt Nam lúa được trồng khắp cả nước đặc biệt là khu vực đồng
bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
2.3. Giá trị dinh dưỡng của lúa gạo
Trên thế giới lúa gạo là nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất cho con
người, bình quân gạo 180 - 200kg/người/năm tại các nước châu Á, khoảng
10kg/người/năm tại các nước châu Mỹ.
Việt Nam, dân số gần 86 triệu người và 100% người Việt Nam sử dụng
lúa gạo làm lương thực chính không thể thiếu trong khẩu phần ăn hàng ngày.
Trung bình hạt gạo chứa 80% tinh bột, 7,5% protein, 12% nước, còn lại
là vitamin và khoáng chất cần thiết cho cơ thể như Vitamin nhóm B (B1, B2,
B6) Vitamin PP, Vitamin E… Hạt gạo là loại thức ăn dễ tiêu hóa và cung cấp
loại protein tốt nhất cho cơ thể [6]. Protein trong gạo là loại protein có giá trị
dinh dưỡng cao nhất trong các loại protein ngũ cốc, mặc dù hàm lượng của nó
thấp hơn các loại ngũ cốc khác. Theo cách phân loại của Osborne (1924) thì
protein dự trữ trong nội nhũ của lúa gạo bao gồm 4 nhóm Albumin,
Globumin, Prolamin, Glutelin [8].
Tinh bột của gạo thuộc dạng rất dễ đồng hóa. Trong hạt gạo tinh bột
chiếm tỉ lệ lớn nhất (72,18 – 80,44%). Các thực phẩm khác chiếm tỉ lệ ít hơn
(6,96 – 10,43%), tro (4,68 – 6,93%), cenllulose (8,74 – 12,23%) [8].
Hàm lượng lipit của lúa gạo vào loại trung bình, phổ biến chủ yếu ở lớp
vỏ, nếu ở gạo xay là 2,02% thì gạo giã 0,52% [11].
Ngày nay để sử dụng hiệu quả các thực phẩm dinh dưỡng từ hạt gạo,
các nhà khoa học ở một số nước đã khuyến cáo người dân nên dùng gạo lứt
trong bữa ăn hàng ngày đặc biệt với những nước sử dụng gạo làm nguồn
dinh dưỡng chính.
2.4. Những đặc tính của giống lúa chất lượng
Phân loại theo các tính trạng đặc trưng thì tập đoàn lúa chất lượng cao
là tập hợp các giống có chất lượng gạo cao theo yêu cầu của từng vùng khác
5
nhau trên thế giới. Tập đoàn này cung cấp nguồn gen cho chọn tạo các giống
có chất lượng gạo cao hoặc các giống đặc sản [12].
Theo tiến sĩ Lê Văn Bảnh: “Lúa chất lượng cao phân thành mấy
nhóm, thứ nhất là lúa thơm hạt dài thon có mùi thơm, hàm lượng amylose
thấp dẻo cơm. Còn loại chất lượng cao là loại gạo hạt dài không bạc bụng
có hàm lượng amylose trung bình thấp khoảng 20% tới 24% trở lại, nhưng
mềm cơm dẻo xuất khẩu được. Còn lại loại trung bình thấp có hàm lượng
amylose tương đối cao cứng cơm, hạt gạo ngắn, giống này chỉ thích hợp
làm gạo 15% tới 25% tấm” [35].
Đặc điểm nhóm giống lúa có phẩm chất cao.
Thứ nhất là nhóm giống lúa cao sản ngắn ngày. Có thời gian sinh
trưởng từ 90 – 110 ngày, chiều cao cây từ 90 – 115cm, P
1000
2
hạt từ 22 – 31g,
năng suất trung bình chỉ đạt 5 – 8 tấn/ha, hơi nhiễm hoặc hơi kháng với rầy
nâu, bệnh cháy lá,… gạo hạt dài, ít hoặc không bạc bụng.
Thứ hai là nhóm giống lúa mùa, đặc sản địa phương. Nhóm giống này
thích nghi rộng, dễ canh tác, gạo phẩm chất cao. Tỉ lệ gạo trắng cao thường
60 – 70%, tỉ lệ gạo nguyên 50 – 60% cao hơn hẳn giống lúa cao sản ngắn
ngày. Hàm lượng amylose là chỉ tiêu quan trọng quyết định phẩm chất cơm.
Các giống lúa mùa địa phương phần lớn có hàm lượng amylose từ trung bình
đến thấp, một số giống có mùi thơm… Nhược điểm của các giống lúa mùa địa
phương là tiềm năng cho năng suất thấp, đa số không kháng rầy nâu [19].
Các giống lúa chuyên mùa phản ứng với ánh sáng ngày ngắn. Nó chỉ
phân hóa đòng khi độ chiếu sáng trong ngày xuống dưới 12 giờ 30 phút. Dù
cấy sớm hay cấy muộn thì các giống lúa chuyên mùa cũng phải đợi đến thời
kì “ngày tháng mười chưa cười đã tối” mới trổ bông.
Các yếu tố cần thiết để hoàn thành chu kì sinh trưởng gồm 3 yếu tố:
yếu tố ngày ngắn, sinh trưởng đủ số lá tối thiểu và không gặp nhiệt độ quá
thấp ở giai đoạn trỗ đến chín.
Yếu tố ngày ngắn thõa mãn trong khoảng thời gian 23/9 đến 21/3
năm sau. Số lá tối thiểu là 14 – 15 lá. Trổ khi 11 – 12 lá gặp thời tiết lạnh
2
Khối lượng 1000 hạt
6
thì năng suất thấp. Do đó cần bố trí thời vụ sao cho sinh trưởng được 15 lá
(7,5 – 8,5 lá thời kì mạ).
Giai đoạn trổ gặp nhiệt độ quá thấp (dưới 15
0
C) thì các giống chuyên
mùa rất khó hoặc không trổ bông. Sau trỗ ở miền Bắc gặp nhiệt độ thấp kéo
dài dẫn đến hạt lúa không vào chắc, lép lững. Ở miền Nam muốn đạt năng
suất cao chú ý cung cấp đủ nước giai đoạn cuối, đảm bảo điều kiện các giống
lúa đạt số lá cần thiết [12].
2.5. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên thế giới
2.5.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Dân số thế giới ngày càng tăng, theo Cục điều tra dân số Mỹ, tính đến
ngày 13/8/2009 dân số toàn cầu 6,777 tỉ người và sẽ đạt ngưỡng 9 tỉ người
vào năm 2040 [39]. Với mức gia tăng dân số như hiện nay vấn đề an ninh
lương thực toàn cầu đang là vấn đề cấp bách.
Bảng 2.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới giai đoạn 2004 – 2008
Năm Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (triệu tấn)
2004 151,0 40,0 606,0
2005 153,5 40,1 614,0
2006 152,6 41,0 622,1
2007 153,0 41,0 622,2
2008 158,9 43,0 685,0
(Nguồn: FAOSAT)
Toàn thế giới có khoảng 158 triệu ha diện tích trồng lúa, châu Á 141
triệu ha chiếm hơn 89% diện tích trồng lúa của thế giới, tiếp đến là châu
Phi (9 triệu ha), châu Mỹ (6 triệu ha), châu Âu và châu Đại Dương diện
tích ít nhất. Châu Á có sản lượng lúa gạo cao nhất thế giới (622684,34
nghìn tấn) nhưng năng suất trung bình lại thấp (43,86 tạ/ha) so với các nước
châu Âu (58,22 tạ/ha), do châu Âu có khoa học kĩ thuật, trình độ canh tác
phát triển hơn hẳn các nước châu Á và châu Phi.
7
Bảng 2.2. Tổng hợp sản lượng lúa Thế giới và Châu lục năm 2008
Vùng/châu lục
Diện tích
(1000ha)
Năng suất (hg/ha)
Sản lượng
(1000tấn)
Thế giới 158955,39 43,09 685013,37
Châu Phi 9526,58 24,32 23175,09
Châu Mỹ 6862,94 51,94 35643,75
Châu Á 141959,89 43,86 622684,34
Châu Âu 596,53 58,22 3473,00
Châu Đại Dương 9,44 39,40 37,20
(Nguồn: FAOSAT)
Thái Lan luôn giữ vị trí số một về sản lượng xuất khẩu lúa gạo (8.570
nghìn tấn), thứ hai là Việt Nam (5.950 nghìn tấn), tiếp đến là Hoa Kỳ,
Pakistan, Ấn Độ,… Quốc gia nhập khẩu nhiều nhất là Philippine với 2.000
nghìn tấn và Nigeria (1.900 nghìn tấn), Iran (1.700 nghìn tấn).
Bảng 2.3. Thống kê và dự báo top 10 nước xuất nhập khẩu gạo lớn
nhất thế giới
(Đvt: 1000tấn)
STT Tên các nước XK
(3)
2008/09 2009/10 Tên các nước NK
(4)
2008/09 2009/10
1 Thái Lan 8.570 10.000 Philippine 2.000 2.600
2 Việt Nam 5.950 5.500 Nigeria 1.900 1.600
3 Hoa Kỳ 3.100 3.150 Iran 1.700 1.700
4 Pakistan 3.000 3.800 Arập Xêút 1.370 1.400
5 Ấn Độ 2.000 2.000 EU-27 1.350 1.350
6 Myanmar 1.052 800 Iraq 1.000 1.100
7 Uruguay 926 750 Malaysia 830 850
8 Campuchia 800 800 Nam Phi 800 800
9 Trung Quốc 760 1.500 Cote d'Ivoire 800 860
10 Brazil 650 300 Senegal 715 700
Thế giới 29.029 30.845 Thế giới 29.029 30.845
(Nguồn: Bộ nông nghiệp Mỹ)
3
Xuất khẩu
4
Nhập khẩu
8
Thị trường gạo chất lượng cao là thị trường cao cấp. Thị trường này
chiếm 25% tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới, thị trường tiêu thụ trước
hết là các nước phát triển, khu vực Tây Âu và Nhật sau đó là các nước NIC
(3)
.
Thị trường này đặc biệt chú trọng quy cách phẩm chất và vệ sinh công nghệ.
Các nhà xuất khẩu chính là Mỹ và Thái Lan. Thực tế những năm qua gạo xuất
khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế được xếp loại A là gạo Mỹ số 2, tỉ lệ tấm không
quá 4%, hạt dài, trắng trong, kích cỡ hạt đều, không lẫn tạp chât, không có
mùi vị lạ, không lẫn hạt đỏ, vàng, sọc…Ngay gạo Mỹ số 5 giá cao hơn gạo
Thái Lan 100B (loại gạo trắng hạt dài 100%, không tấm) [27].
2.5.2. Tình hình nghiên cứu chất lượng lúa gạo trên thế giới
Việc nghiên cứu chất lượng lúa gạo đã được các nhà khoa học trên
thế giới quan tâm từ lâu. Tuy nhiên, đến sau đại chiến lần thứ hai, các công
trình nghiên cứu về chất lượng lúa gạo mới được triển khai một cách mạnh
mẽ tại nhiều nước trên thế giới.
Ngày 10/1978 cuộc hội thảo các nhà di truyền chọn giống, hóa sinh,
hóa học hạt của nhiều nước trên thế giới được tổ chức ở Viện lúa quốc tế
IRRI
4
, đã phân chia chất lượng lúa gạo thành bốn nhóm: Chất lượng xay xát,
chất lượng thương phẩm, chất lượng nấu nướng và ăn uống, chất lượng dinh
dưỡng. Ngày nay bốn nhóm đã được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu cũng
như sản xuất lúa gạo [8].
Các nhà khoa học Nhật Bản đã phát hiện được giống lúa mới, giống
này có hàm lượng hoocmon GLP – 1 cao, kích thích tuyến tụy tiết ra insulin.
Đây là giống lúa biến đổi gen, kết quả phối hợp của Viện khoa học Nông –
Sinh quốc gia (NIAS), ngành công nghiệp giấy tư nhân Nhật Bản và Viện
nghiên cứu Sanwan Kagaku [23].
Theo tiến sĩ Subra Chakraborty thì Việc tăng hàm lượng protein được
thực hiện bằng cách bổ sung gen AmA1 của rau dền vào hệ gen của cây lúa.
Với việc làm này dự tính sẽ làm tăng hàm lượng protein, amino axit trong hạt
gạo. Hiện gen AmA1 được bổ sung vào 4 giống lúa và đang được canh tác ở
Ấn Độ trong đó có giống IR72 và Pusa Basmita [22].
Nhóm của giáo sư Ingo Potrykus và nhóm nghiên cứu của Toshihiro
Yoshishra ở Nhật đang tiến hành nghiên cứu để tạo giống lúa có hàm lượng sắt
9
cao bằng chuyển nạp gen tạo ra Ferritin – 1 loại protein dự trữ sắt trong cây
đậu. Gen điều khiển tổng hợp Ferritin trong cây họ đậu đã được phân lập và
được chuyển vào cây lúa nhờ vi khuẩn, hiệu quả làm hàm lượng sắt trong cây
lúa tăng 3 lần. hàm lượng sắt trong gạo tăng khắc phục bệnh thiếu máu [23].
Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) đang phát triển 2 giống lúa gạo
vàng là IR64 và BR29. Hàm lượng β – carotene trong các giống IR64 và
BR29 lần lượt được kiểm chứng là 2,32 và 9,24 microgram [28].
Giống lúa giàu sắt là Jao Hon Nin 3 được các nhà khoa học Thái Lan
lai tạo giữa giống lúa Khao Dak Mali và giống lúa Hon Nin. Giống mới này
có hàm lượng sắt là 0,6 mg/100g gạo, cao gấp 30 lần so với gạo của những
giống lúa thường. Ngoài ra nó cũng chứa protein, kẽm và những tác nhân
chống oxy hóa [28].
Với những thành tựu trên trong tương lai, các ứng dụng của công
nghệ sinh học sẽ giúp cho lúa gạo ngày càng có nhiều giá trị đối với đời
sống con người.
2.6. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa ở Việt Nam
2.6.1. Tổng quan ngành lúa gạo Việt Nam
Việt Nam được mệnh danh là cái nôi của nền văn minh lúa nước.
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, điều kiện thuận lợi cho
lúa phát triển. Với vị trí địa lí dài trên 15 vĩ độ ở Bắc bán cầu, từ Bắc
vào Nam hầu như vùng nào cũng trồng lúa.
Bảng 2.4. Tình hình sản xuất lúa Việt Nam từ 2000 – 2009
Năm
Diện tích
(1000ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lượng
(1000tấn)
2004 7445,3 48,6 36148,9
2005 7329,2 48,9 35832,9
2006 7324,8 48,9 35849,5
2007 7207,4 49,9 35942,7
2008 7414,3 52,2 38725,1
2009
5
7440,1 52,3 38895,5
(Nguồn: Tổng cục hải quan)
5
Sốa liệu sơ bộ
10
Năm 2008 được mùa lớn với sản lượng lúa đạt 38,7 triệu tấn, tăng 2,8
triệu tấn so với năm 2007 và là năm sản lượng lúa đạt mức cao nhất trong 12
năm trước đó. Năm 2009, mặc dù nước ta bị bão lũ gây thiệt hại nặng nề,
nhưng nhờ có sự nỗ lực đẩy mạnh sản xuất của các vùng, miền, nhất là đồng
bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long nên sản lượng lúa cả năm vẫn
đạt gần 38,9 triệu tấn, tăng 165,7 nghìn tấn so với năm 2008.
Bảng 2.5. Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam từ 2004 - 2009
Năm
Xuất khẩu Tăng so với năm trước (%)
Lượng
(1000 tấn)
Giá trị
(triệu USD)
Lượng
(1000 tấn)
Giá trị
(triệu USD)
2004 4055 941 106,3 130,6
2005 5202 1399 127.3 147.3
2006 4749 1306 90.5 92.8
2007 4500 1454 96.9 113.9
2008 4720 2902 103,6 194,8
2009 5947 2662 125,4 92,0
(Nguồn: Tổng cục hải quan)
Lúa gạo nước ta được xuất khẩu sang một số thị trường chính và chiếm
thị phần lớn đó là: Philippin 1.707.994 tấn, Malaixia 613.213 tấn, Đài Loan
204.959 tấn, Singgapo 327.533 tấn, Irắc 171.000 tấn… (tính riêng năm 2009).
Tháng 1/2010 lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt 380.688 tấn về
sản lượng (tăng 86,11% so với cùng kì năm ngoái) và 204.963.159 USD về
giá trị. Các nước châu Á luôn chiếm thị phần lớn trong xuất khẩu gạo nước ta,
điển hình nhất là xuất khẩu sang Philippin đạt 209.728 tấn chiếm đến 55%
tổng sản lượng xuất khẩu.
2.6.2. Tình hình sản xuất lúa chất lượng ở Việt Nam
Từ năm 1999, nông nghiệp bắt đầu tập trung triển khai chương trình
mở rộng diện tích trồng lúa chất lượng cao nhằm tăng giá trị hàng hóa và
thu nhập cho người dân, phấn đấu đạt tổng sản lượng 40 triệu tấn/năm
11
trong đó có 3 – 4 triệu tấn xuất khẩu. Nhà nước đặt chỉ tiêu gieo trồng lúa
chất lượng cao cho đồng bằng sông Cửu Long là 1 triệu ha và đồng bằng
sông Hồng 300.000 ha [12].
Theo Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn căn cứ yêu cầu và khả năng
xuất khẩu gạo cao năm 2007, Bộ chọn 7 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
(Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Long An, Sóc Trăng, Kiên Giang, TP
Cần Thơ) tổ chức mô hình sản xuất lúa chất lượng cao. Các tỉnh này sẽ phối
hợp với tổng công ty Lương thực miền Nam tổ chức mô hình sản xuất 1 triệu
ha lúa chất lượng cao trong vụ Đông xuân 2006 – 2007, chế biến 500.000 tấn
gạo chất lượng cao xuất khẩu [33].
Vụ lúa Đông xuân 2006 - 2007 tỉnh Đồng Tháp xuống giống được hơn
125.000 ha lúa chất lượng cao, chiếm 60,20% diện tích trồng lúa toàn tỉnh,
bình quân mỗi ha sau khi trừ chi phí cho lợi nhuận từ 20 đến 30 triệu đồng,
cao hơn sản xuất lúa bình thường từ 5 đến 15 triệu đồng/ha [32].
Vụ mùa năm 2009, toàn huyện Lương Tài (Bắc Ninh) gieo trồng 866,2
ha giống lúa chất lượng cao, chiếm gần 20% diện tích, bằng 147% so với
cùng kỳ. Các giống lúa chất lượng cao như: HT1, BC15, Bắc thơm số 7, Nếp
87, Nếp 97,… gieo trồng nhiều ở một số xã Bình Định, Phú Hòa, Quảng Phú,
Mỹ Hương [28].
Theo Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn): Vụ thu
đông và mùa 2009 tại các tỉnh ĐBSCL sẽ canh tác bằng các giống lúa chất
lượng cao và hạn chế đến mức thấp nhất giống lúa IR 50404 và OM 576 [34].
Từ cuối 1994 Việt Nam đã sản xuất được gạo cao cấp, điển hình là gạo 5%
tấm, gần tương đương với gạo Thái Lan. Chất lượng gạo nước ta có tiến bộ
nhiều nhưng chỉ là tương đối.
12
Bảng 2.6. So sánh 9 chỉ tiêu chất lượng xuất khẩu loại gạo IR 5% giữa
Mỹ và Việt Nam
9 chỉ tiêu cơ bản Gạo Mỹ Gạo Việt Nam
Long – grain (hạt dài)
Tối thiểu 6,7 – 7 mm, ít
nhất phải > 35%
Số lượng rất ít
Red Streaked kermel (chỉ đỏ)
Tối đa không quá 25%
và không có hạt đỏ
Sông Tiền: 2,5%
(còn lẫn hạt đỏ)
Chalky kermel (bạc bụng) Tối đa 2,5%
Sông Tiền: 7%
Sông Hậu: 4%
Yelow kermel (hạt vàng) Tối đa 0,5% Sông Tiền: 2%
Glutinous rice (lẫn gạo nếp) Tối đa 0,5% Tối đa 0,5%
Damaged kermel (hạt bị hư) Tối đa 0,25%
Sông Tiền: 1%
Sông Hậu: 0,5%
Hạt thóc còn sót lại Tối đa 3 hạt/kg Thường ≤ 5 hạt/kg
Độ ẩm Tối đa 14% Thường ≤ 14,5%
Ngoại chất Tối đa 0,1% Thường còn 0,5-1%
(Nguồn: FAO: Thông tin thương mại toàn cầu trên mạng Internet)
Bảng trên so sánh gạo chất lượng cao của Việt Nam với gạo chất lượng
thấp của Mỹ mà không đề cập gạo chất lượng cao hơn vì lúc đó Việt Nam
không có. Trong 9 chỉ tiêu cơ bản nhất được đưa ra, gạo Việt Nam đều thua
kém rất nhiều so với gạo Mỹ, trừ tiêu chuẩn 5 (lẫn gạo nếp). Còn rất nhiều
công việc phải làm để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu của nước ta [24].
Mặc dù gạo Việt Nam đứng thứ hai thế giới về sản lượng xuất khẩu
nhưng lại đứng thứ ba về chất lượng. Muốn nâng cao chất lượng gạo tiêu
dùng nội địa và gạo xuất khẩu, trước tiên phải làm một cuộc cách mạng về
giống lúa.
13
Bảng 2.7. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam sangớmotj số thị trường
ngày 26/10/2009
Mặt hàng
Giá (USD/
tấn)
Nước xuất
khẩu
Cảng xuất khẩu
Đ/K giao
hàng
Gạo trắng 100% tấm 300.00 Singapore ICD Phước Long Thủ Đức FOB
Gạo trắng 100% tấm 300.00 Đài Loan
ICD III - Transimex (Cang
SG khu vực IV)
FOB
Gạo trắng 100% tấm
(đóng bao 50 kí tịnh)
464.00 Thổ Nhĩ Kỳ Cảng Vict FOB
Gạo trắng 100% tấm 330.00 Ghana
Cảng Cát Lái (Hồ Chí
Minh)
CF
Gạo trắng 25% tấm 400.00 Singapore ICD Phước Long Thủ Đức FOB
(Nguồn: Vinanet)
Gạo chất lượng cao luôn bán được giá tại các thị trường trên thế giới,
Gạo trắng 25% tấm giá 400.000 USD/tấn (thị trường Singapore) trong khi
đó gạo trắng 100% tấm giá chỉ 300.000 USD/tấn (thị trường Singapore),
chênh lệch nhau 100.000 USD/tấn. Đây là nguồn lợi hấp dẫn kích thích sản
xuất gạo chất lượng cao.
2.6.2. Nghiên cứu giống lúa chất lượng và chất lượng lúa gạo Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu chất lượng nông sản nói chung và chất lượng lúa gạo
nói riêng đang ngày càng được chú ý. Bên cạnh năng suất, chất lượng được
xem là một chỉ tiêu quan trọng không thể bỏ qua khi đánh giá một giống. Các
giống lúa mới bên cạnh chỉ tiêu năng suất có chỉ tiêu protein, amylose,
amylopectin, nhiệt độ hồ hoá…chất lượng là một tổ hợp các yếu tố khác nhau,
mỗi một yếu tố được điều khiển bởi một hoặc nhiều gen. Để tạo giống lúa có
chất lượng tốt, tất nhiên phải kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu chất lượng và di
truyền chất lượng.
Hệ thống các cơ quan nghiên cứu gồm Viện Khoa học và Kĩ thuật nông
nghiệp Việt Nam, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, Viện Công nghệ sau
thu hoạch, Viện Nông nghiệp miền Nam, Viện lúa đồng băng sông Cửu Long,
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét