CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Nội dung của chương:
1.1. Nền kinh tế số
1.1.1. Đặc điểm
1.1.2. Những hạn chế
1.2. Thương mại điện tử
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Lịch sử phát triển của TMĐT
1.2.3. Động lực thúc đẩy TMĐT phát triển
1.2.4. Các đặc trưng của TMĐT
1.2.5. Các loại hình giao dịch TMĐT
1.2.6. Các hình thức hoạt động chủ yếu của TMĐT
1.2.7. Những yếu tố góp phần vào thành công của một giao dịch TMĐT
1.2.8. Lợi ích và hạn chế của TMĐT
1.2.9. Ứng dụng của TMĐT
Giới thiệu
Thương mại điện tử sẽ là thương mại của thế kỷ tương lai. Tốc độ, chi phí thấp và
khả năng truy cập Internet làm cho thương mại điện tử trở thành cơ hội mới cho tất cả
các doanh nghiệp. Thương mại điện tử sẽ giảm đáng kể chi phí chung, thúc đẩy sự phát
triển của lĩnh vực bán lẻ, đảm bảo thanh toán dễ dàng hơn và làm giảm rủi ro đầu tư nội
tại – đây chính là mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp. Đây cũng là điều mà con người
ở đầu thế kỷ này cần hiểu rõ. Chương 1 đưa ra cái nhìn sơ lược về thương mại điện tử
trong nền kinh tế số toàn cầu. Sau khi học xong, sinh viên có thể:
- Phân tích đặc điểm, hạn chế của nền kinh tế số
- Định nghĩa và nêu các đặc trưng của thương mại điện tử
- Nêu những động lực phát triển thương mại điện tử
- Phân biệt các loại hình giao dịch thương mại điện tử
- Phân tích các hình thức hoạt động chủ yếu của thương mại điện tử
- Đánh giá vai trò và đòi hỏi của điều kiện thực hiện giao dịch thương mại điện tử
- Phân tích lợi ích, hạn chế của thương mại điện tử đối với doanh nghiệp, khách
hàng và xã hội
0.1 NỀN KINH TẾ SỐ
0.1.1 Đặc điểm của nền kinh tế số
- Là nền kinh tế dựa trên tri thức
Tri thức không chỉ đơn thuần là một nguồn tài nguyên khác cùng với các nhân tố
sản xuất truyền thống như: lao động, vốn và đất mà là một nguồn tài nguyên có ý nghĩa
quan trọng nhất. Trong nền kinh tế tri thức, các tài sản chính của một tổ chức là tài sản
trí tuệ và tập trung vào người lao động có tri thức. Điều này sẽ là lý do cho các công ty
trên thế giới phải phát triển các phương thức mới để đo lường và quản lý các tài sản trí
tuệ của họ. Như vậy, có một bước chuyển đổi từ lao động cơ bắp sang lao động trí óc.
Tri thức trở thành một yếu tố quan trọng của sản phẩm. Lao động tri thức trở thành nền
tảng của giá trị, thu nhập và lợi nhuận. Tri thức được tăng trong toàn bộ chuỗi giá trị.
Các công nghệ tri thức, các hệ thống chuyên gia, trí tuệ nhân tạo phát triển nhanh. Các
hệ thống thông tin quản lý và các hệ thống tiền thân của nó, xử lý dữ liệu tiến hoá thành
các hệ thống tri thức.
- Tính chất số
Trong các nền kinh tế trước đây, thông tin ở dạng vật chất. Con người giao tiếp với
nhau bằng cách di chuyển sự hiện diện hữu hình của họ. Trong nền kinh tế số, thông tin
được mã hoá dưới dạng các bit. Khi thông tin được số hoá và được truyền qua các mạng
số, một thế giới các triển vọng mới đã mở ra trước mắt. Một lượng lớn thông tin có thể
được nén và truyền đi với tốc độ ánh sáng. Chất lượng thông tin có thể tốt hơn, tạo ra
nhiều dạng thông tin khác nhau, có thể dược lưu trữ và truy cập ngay lập tức tại bất kỳ
địa điểm nào trên thế giới. Các thiết bị số có thể được thiết kế để bỏ vừa vào túi của bạn
và có thể ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực hoạt động và đời sống cá nhân.
Khi thông tin chuyển từ dạng vật chất sang dạng số, các vật chất thực thể có thể trở
thành ảo. Điều đó làm thay đổi sự chuyển hoá của nền kinh tế, các dạng thể chế, các
mối quan hệ và bản chất của hoạt động kinh tế (bảng tin ảo, công viên kinh doanh ảo,
tập đoàn ảo, siêu thị ảo…).
- Là nền kinh tế phân tử.
Công ty cũ bị phân rã ra và thay thế bằng các phân tử, các cụm cá nhân và thực thể
năng động, tạo ra nền tảng của hoạt động kinh tế. Tổ chức không nhất thiết biến mất,
nhưng nó được biến đổi. “Khối” trở thành “phân tử” trong tất cả các khía cạnh của đời
sống kinh tế xã hội. Như vậy, về kinh tế sẽ xuất hiện việc thay thế phương tiện truyền
thông đại chúng, sản xuất đại trà, chính phủ nguyên khối bằng phương tiện phân tử, sản
xuất phân tử, quản lý phân tử… Điều này dẫn đến việc kết thúc trật tự ra lệnh - điều
khiển, chuyển sang cơ cấu phân tử dựa trên tập thể. Người lao động và các nhóm công
tác được trao quyền hoặc tự do hành động và tạo ra giá trị các hệ thống và công nghệ
hướng đối tượng. Phần mềm tách dữ liệu khỏi lập trình (các dịch vụ) để tạo ra các
module hoặc các mẫu logo có thể tái sử dụng và lắp ráp rất nhanh.
- Nền kinh tế số là một nền kinh tế được nối mạng, tích hợp các phân tử thành
các cụm được nối mạng với các cụm khác để tạo ra của cải.
Các cơ cấu tổ chức mới được nối mạng không chỉ đơn giản là việc tạo ra các tổ
chức hướng – quá trình trong đó các quá trình kinh doanh được thiết kế lại để tiết kiệm
chi phí và tăng cường khả năng đáp ứng. Tổ chức mới, được liên minh về các công nghệ
hội tụ gọi là “Doanh nghiệp làm việc trên Internet” là một Web rộng lớn các mối quan
hệ gồm tất cả các cấp và các chức năng kinh doanh mà trong đó các ranh giới bên trong
và bên ngoài đều có thể thẩm thấu và thay đổi được.
Các mạng công nghệ mới giúp các công ty nhỏ vượt qua được các ưu thế chính của
các công ty lớn – kinh tế quy mô và có khả năng tiếp cận với các nguồn tài nguyên.
Đồng thời, các công ty nhỏ hơn này không bị đè nặng bởi các bất lợi chính mà các công
ty lớn phải chịu – quan liêu, trật tự ngột ngạt và không có khả năng thay đổi. Giống như
các công ty lớn tách nhỏ ra - trở thành các cụm của các phân tử nhỏ hơn có thể phối hợp
với nhau tốt – các công ty nhỏ có được các ưu thế về tính linh hoạt, chủ quyền và mềm
dẻo.
Doanh nghiệp làm việc trên Internet sẽ là một mở rộng của công ty ảo vì có sự tiếp
cận đến các đối tác kinh doanh bên ngoài, liên tục cơ cấu lại các mối quan hệ kinh
doanh và tăng cường sử dụng nguồn lực bên ngoài.
Như vậy, nền kinh tế số là nền kinh tế nối mạng với các mối liên kết sâu, phong
phú bên trong và giữa các tổ chức và các thể chế. Việc tạo ra của cải, mua bán và sự tồn
tại của xã hội đều dựa trên một cơ sở hạ tầng thông tin công cộng tồn tại ở khắp nơi.
Doanh nghiệp mới là doanh nghiệp được nối mạng. Những cái trước kia chỉ có thể đạt
được thông qua các trật tự cứng rắn, bây giờ công nghệ mới cho phép tích hợp các thành
phần cấu tạo độc lập, có thể tháo lắp - một mạng tích hợp các dịch vụ. Có một bước
chuyển đổi từ máy tính chủ sang máy tính mạng. Các ốc đảo công nghệ được thay thế
bằng các mạng khách/chủ, làm thành một phần của hạ tầng cơ sở thông tin công cộng và
doanh nghiệp.
- Các chức năng môi giới giữa các nhà sản xuất và người tiêu dùng đang bị loại
bỏ thông qua các mạng số. Các doanh nghiệp, các chức năng và con người lớp
giữa (trung gian) cần tiến lên lớp trên để tạo ra giá trị mới, hoặc họ sẽ phải đối
mặt với vấn đề phi môi giới. Khi thông tin quan trọng trở thành trực tuyến, người
sở hữu và người mua được nối mạng, những người môi giới trung gian sẽ phải
thay đổi cách hoạt động. Họ cần phải hiểu không chỉ khách hàng - người mua mà
để cung cấp được giá trị cao, người môi giới còn cần phải hiểu các khách hàng
của khách hàng. Cách suy nghĩ mới này đòi hỏi người môi giới phải thường
xuyên tiếp cận với thông tin. Họ phải có các kỹ năng giỏi về các mối quan hệ với
con người, kiến thức vững chắc về các thay đổi chính và các công cụ mạnh để
giao dịch. Như vậy, nền kinh tế số sẽ loại bỏ các khâu trung gian trong hoạt động
kinh tế - những người làm khuyếch đại các tín hiệu truyền thông trong một tổ
chức tiền tri thức.
- Trong nền kinh tế số, một ngành kinh tế vượt trội đang được ba ngành công
nghiệp hội tụ tạo ra, và đến lượt mình, ngành này lại cung cấp hạ tầng cơ sở cho
tất cả các ngành để tạo ra của cải. Trong các nền kinh tế trước đây, ngành công
nghiệp máy móc tự động đóng vai trò chủ chốt. Ngành vượt trội trong nền kinh
tế số là phương tiện mới, đó là các sản phẩm của sự hội tụ giữa máy tính, truyền
thông và các ngành công nghiệp nội dung. Phần cứng máy tính và giải truyền
thông đều đang trở thành hàng hoá. Lợi nhuận trong khu vực mới đang chuyển
sang ngành nội dung vì đây chính là nơi tạo giá trị cho khách hàng chứ không
phải trong các hộp hay trong việc truyền tín hiệu.
Như vậy, nền kinh tế số sẽ xuất hiện sự hội tụ của các ngành kinh tế chính – máy
tính, truyền thông và nội dung, hội tụ của các cơ cấu tổ chức chịu trách nhiệm về các
công nghệ máytính, truyền thông và nội dung hội tụ của chúng.
- Nền kinh tế dựa trên đổi mới.
Một loại sản phẩm vừa được tạo ra thì mục tiêu của nhà sản xuất là tạo ra một sản
phẩm tốt hơn và làm cho sản phẩm đầu tiên trở nên lỗi thời. Nếu không làm cho nó lỗi
thời thì có người khác sẽ làm. Trong nền kinh tế số, đổi mới là quyết định tối ưu của
hoạt động kinh tế và thành công kinh doanh. Trí tưởng tượng của con người đã trở thành
nguồn tài nguyên chính của giá trị chứ không phải kiểu cách truyền thống dẫn đến thành
công như việc tiếp cận với nguyên liệu thô, năng suất, quy mô và chi phí lao động. Đổi
mới bao hàm các sản phẩm, các chiến lược tiếp thị, các phương pháp tiếp cận quản lý,
các thay đổi về tổ chức. Các nguyên tắc và phương pháp tiếp cận cũ thất bại rất nhanh.
Lợi thế lâu bền duy nhất là kiến thức tổ chức. Cơ sở hạ tầng thông tin doanh nghiệp mới
cung cấp một nền tảng cho việc đổi mới.
- Trong nền kinh tế số, khoảng cách giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất rất
mờ nhạt. Người tiêu dùng tham gia vào quá trình sản xuất thực sự khi tri thức,
thông tin và các ý tưởng của họ trở thành một phần của quá trình xác định sản
phẩm. Sự phối hợp của con người qua mạng trở thành một phần của nguồn
thông tin đa phương tiện hợp nhất.
- Trong nền kinh tế dựa trên các bit, tính tức thời trở thành quyết định và có thể
biến đổi hoạt động kinh tế và thành công trong kinh doanh. Nền kinh tế số là
nền kinh tế thời gian thực. Thương mại trở thành điện tử khi các giao dịch kinh
doanh và truyền thông diễn ra với tốc độ ánh sáng hơn là tốc độ của bưu điện.
Doanh nghiệp mới, là doanh nghiệp thời gian thực – liên tục và ngay lập tức điều
chỉnh để thay đổi các điều kiện kinh doanh. Chu kỳ sống của sản phẩm ngắn lại.
Công nghệ được áp dụng để thu thập thông tin trực tuyến và để cập nhật các
ngân hàng thông tin trong thời gian thực – đưa ra một bức tranh chính xác hoặc
tạo khả năng quản lý một quy trình quản lý từng phút một.
- Nền kinh tế số là nền kinh tế toàn cầu hoá, tri thức không biết tới biên giới.
Khi tri thức trở thành nguồn tài nguyên chính, chỉ có duy nhất một nền kinh tế
thế giới, ngay cả khi một tổ chức hoạt động trong một quốc gia, một khu vực hay
một vùng. Doanh nghiệp mới có khả năng độc lập về thời gian và không gian: nó
định nghĩa lại lại thời gian và không gian cho các nhân viên và những người có
cổ phần. Công việc có thể được thực hiện từ nhiều địa điểm khác nhau. Các
mạng của các cụm kinh doanh phối hợp toàn cầu để đạt được các mục tiêu kinh
doanh. Mạng phối hợp toàn cầu trở thành đường xương sống của doanh nghiệp
và hệ thống cung cấp chính nhằm hỗ trợ các hoạt động kinh doanh. Nó cũng hỗ
trợ việc truy cập tới nguồn thông tin chung từ bất kỳ địa điểm nào.
0.1.2 Những hạn chế của nền kinh tế số
Chuyển sang nền kinh tế số, người ta dự báo sẽ có những mặt trái như sau:
- Thay đổi sẽ tạo ra sự phân bổ sai lệch. Nhân lực trong nông nghiệp chiếm từ
90% dân số hồi cuối thế kỷ trước đã giảm xuống đến 3% dân số hiện tại. Làm thế
nào để chúng ta quản lý được ảnh hưởng của sự chuyển đổi tới các loại hình
công việc mới và nền tảng tri thức mới cho nền kinh tế?
- Xa lộ thông tin có khả năng xâm phạm quyền tự do cá nhân tới mức không
thể dự đoán nổi và không thể tránh khỏi. Khi việc trao đổi thông tin giữa mọi
người, giao dịch kinh doanh, làm việc, học tập và vui chơi ngày càng tăng trên
mạng, hàng loạt thông tin các loại sẽ được số hoá và mạng hoá. Như vậy làm sao
có thể tin chắc rằng quyền cá nhân có thể được bảo vệ trong nền kinh tế số?
- Một xa lộ thông tin bị quan niệm sai và do vậy chuyển đổi sang nền kinh tế số
có thể nuôi dưỡng một xã hội hai tầng lớp, tạo thành môt hố sâu ngăn cách
giữa người có và người không có thông tin. Khi công nghệ thông tin ngày càng
quan trọng hơn đối với thành công kinh tế và phúc lợi xã hội, khả năng “phân
biệt chủng tộc về thông tin” càng có thể trở thành hiện thực. Liệu có phải đang
xuất hiện “cuộc nổi dậy của những con người tinh tuý”, những người sẽ sử dụng
hạ tầng thông tin mới để ngày càng bọc kín mình hơn, chứng tỏ mình gần gũi
hơn với bạn bè và đồng nghiệp trong không gian khoa học giả tưởng, đánh mất
khái niệm về trách nhiệm với mọi người trong cộng đồng hay đất nước họ sống?
- Rất có thể sẽ còn nảy sinh những khoảng cách khác do khả năng tiếp cận khác
nhau với công nghệ mới và nền kinh tế số. Theo chiều hướng đó, liệu ai có thể
dự đoán rằng công nghệ mới sẽ thay đổi cấu trúc xã hội như thế nào?
- Nền kinh tế số chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của
con người. Khi công nghệ xâm chiếm văn phòng, nhà ở, xe hơi, phòng khách
sạn, ghế máy bay, … của chúng ta, liệu có còn ranh giới rõ ràng giữa công việc
và hoạt động giải trí? Các nhà tâm lý học đã tranh luận rằng việc thực hiện đa
nhiệm vụ đang dẫn tới sự bất ổn tinh thần liên quan tới stress mới. Hay liệu công
nghệ có thể thực hiện điều ngược lại – đem lại tự do cho chúng ta, khuyến khích
chúng ta, làm chúng ta thư giãn ngay cả trong công việc.
- Tác động của phương tiện mới tới gia đình sẽ là gì? Phương tiện mới hứa hẹn
củng cố gia đình bằng cách chuyển các hoạt động của các thành viên trong mỗi
gia đình đang bị phân tán bởi xã hội công nghiệp quay trở lại nhà. Các hoạt động
đó bao gồm làm việc, học tập, mua bán, giải trí, chăm sóc sức khoẻ, quan tâm tới
người già và thậm chí tham gia vào tiến trình dân chủ. Nhưng liệu có nảy sinh
những nguy hiểm khác không? Sự xa cách giữa các thành viên trong gia đình hay
sự không đồng đều về khả năng tiếp cận với phương tiện mới giữa các gia đình.
0.2 THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
0.2.1 Khái niệm
TMĐT là hình thức mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ thông qua mạng máy
tính toàn cầu.
TMĐT theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về TMĐT của Ủy ban
Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL): “Thuật ngữ Thương mại
cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ
mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính
thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại cung
cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý
thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ
thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô
nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên
chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường
bộ.”
Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh
vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn
lĩnh vực áp dụng của TMĐT. Theo nghĩa hẹp, TMĐT chỉ gồm các hoạt động thương
mại được tiến hành trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính các hoạt
động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ TMĐT.
TMĐT bao gồm các hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ qua phương tiện điện
tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu
điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua
sắm công cộng, tiếp thị trực tuyến tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng.
TMĐT được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các
thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin,
dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo
dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo). TMĐT đang trở thành một cuộc cách
mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con người.
0.2.2 Lịch sử phát triển của Thương mại điện tử
- Năm 1962: Ý tưởng đầu tiên về mạng kết nối các máy tính với nhau (J.C.R.
Licklider)
- Năm 1965: Mạng gửi các dữ liệu đó được chia nhỏ thành từng packet, đi theo các
tuyến đường khác nhau và kết hợp lại tại điểm đến (Donald Dovies); Lawrence
G.Roberts đó kết nối với một máy tính ở Massachussetts với 1 máy tính khác ở
California qua đường dây điện thoại
- Năm 1967: Ông này đề xuất ý tưởng mạng ARPANET – Advanced research
project Agency Network tại hội nghị ở Michigan: công nghệ chuyển gửi tin –
packet switching technology đem lại lợi ích to lớn khi nhiều máy tính có thể chia
sẻ thông tin với nhau. Phát triển mạng máy tính thử nghiệm của Bộ Quốc Phòng
Mỹ theo ý tưởng ARPANET
- Năm 1969: Mạng này được đưa vào hoạt động và là tiền thân của internet;
Internet – liên mạng được bắt đầu xuất hiện khi nhiều mạng được kết nối với
nhau
- Năm 1972: thư điện tử bắt đầu được sử dụng ( Ray Tomlinson)
- Năm 1973: ARPANET lần đầu tiên được kết nối ra nước ngoài, tới 1 trường Đại
học ở London
- Năm 1984: Giao thức chuyển gởi tin TCP/IP (Transmision control protocol và
internet protocol) trở thành giao thức chuẩn của internet; hệ thống các tên miền
DNS (Domain Name system) ra đời để phân biệt được các máy chủ chia thành 6
loại chính:
+ .edu: lĩnh vực giáo dục
+ .gov: thuộc các cơ quan chính phủ
+. military: lĩnh vực quân sự
+.com: lĩnh vực thương mại
+. Org: các tổ chức
+.net: các mạng, giải trí
- Năm 1990: ARPNE ngừng hoạt động, internet chuyển sang giai đoạn mới
- Năm 1991: Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản HTML (hypertext Markup
Language) ra đời cùng với giao thức truyền siêu văn bản HTTP (hypertext
transfer protocol). Internet thực sự trở thành công cụ đắc lực với hàng loạt dịch
vụ mới
WWW ra đời, đem lại cho người dùng khả năng tham chiếu từ một văn bản đến
nhiều văn bản khác, chuyển cơ sở dữ liệu này sang cơ sở dữ liệu khác với hình thức hấp
dẫn và nội dung phong phú
Internet và web là công cụ quan trọng nhất của Thương mại điện tửu, giúp cho
thương mại điện tử phát triển và hoạt động hiệu quả
Mạng internet được sử dụng rộng rãi từ năm 1994
Công ty Netsscape tung ra các phần mềm ứng dụng để khai thác thông tin trên
internet vào tháng 05/1995
Công ty Amazon.com ra đời vào tháng 5/1997
Công ty IBM tung ra chiến dịch quảng cáo cho các mô hình kinh doanh điện tử năm
1997
Dịch vụ internet bắt đầu được cung cấp tại Việt Nam chính thức từ năm 1997
0.2.3 Động lực thúc đẩy TMĐT phát triển
- Động lực kinh tế: một trong những lợi ích của TMĐT là tính hiệu quả kinh tế
đạt được từ việc giảm chi phí truyền thống, hạ tầng công nghệ chi phí thấp, tốc
độ cao hơn và giao dịch điện tử kinh tế hơn với nhà cung cấp, chi phí chia sẻ
thông tin toàn cầu và quảng cáo thấp hơn, các lựa chọn dịch vụ của khách hàng
rẻ hơn.
Sự hội nhập kinh tế hoặc là bên trong hoặc là bên ngoài. Sự hội nhập bên trong liên
quan tới mạng lưới kinh tế của các tổng công ty, tập đoàn, nhà cung cấp, khách hàng và
các nhà thầu độc lập vào trong một cộng đồng truyền đạt tới một môi trường ảo (với
Internet như là phương tiện). Việc tích hợp Internet, mặt khác là mạng lưới của nhiều
ban trong một công ty và của các hoạt động kinh doanh và chu trình. Điều này cho phép
thông tin kinh doanh quan trọng được lưu giữ dưới dạng số có thể lấy được ngay lập tức
và truyền tải điện tử. Việc hội nhập bên trong với minh họa tốt nhất là mạng nội bộ công
ty (Internet). Các công ty có mạng nội bộ hiệu quả là Procter and Gamble, IBM, Nestle
và Intel.
- Động lực thị trường: Các tổ hợp công ty được khuyến khích sử dụng TMĐT
trong tiếp thị và xúc tiến sản phẩm nhằm nắm bắt được thị trường quốc tế lớn và
nhỏ. Tương tự, Internet được sử dụng như là một phương tiện cho tăng cường
các dịch vụ và hỗ trợ khách hàng. Điều này dễ hơn nhiều cho các công ty nhằm
cung cấp cho người tiêu dùng với chi tiết hơn về sản phẩm và thông tin dịch vụ
qua việc sử dụng Internet.
- Động lực công nghệ: Sự phát triển của Công nghệ - Thông tin - Truyền thông
(ICT – Information and Communications Technology) là nhân tố chính trong sự
tăng trưởng của TMĐT. Ví dụ, tiến bộ công nghệ trong số hóa nội dung, kỹ thuật
nén và thúc đẩy công nghệ hệ thống mở đã mở đường cho hội tụ dịch vụ truyền
thông vào một mặt bằng duy nhất. Đổi lại, điều này đã làm cho truyền thông hiệu
quả hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn và kinh tế hơn vì nhu cầu thiết lập mạng riêng
biệt cho các dịch vụ điện thoại, truyền hình, truyền hình cáp và truy nhập Internet
bị loại trừ. Từ quan điểm của doanh nghiệp, công ty và người tiêu dùng, chỉ có
một nhà cung cấp thông tin có nghĩa là chi phí truyền thông thấp hơn.
Hơn thế nữa, nguyên tắc của tiếp cận phổ cập có thể đạt được dễ dàng hơn với sự
hội tụ. Hiện tại chi phí cao của việc lắp đặt các đường dây trên đất liền tại các vùng
nông thôn thưa thớt làm nản lòng các công ty viễn thông nhằm lắp đặt điện thoại tại các
khu vực này. Lắp đặt đường dây trên mặt đất ở các vùng nông thôn có thể hấp dẫn thành
phần tư nhân hơn nếu doanh thu từ việc này không giới hạn với chi phí điện thoại
đường dài và nội hạt. Sự phát triển này sẽ đảm bảo sự tiếp cận có thể chấp nhận được
tới thông tin cho những người ở vùng nông thôn và sẽ giảm bớt cho chính phủ những
vấn đề và chi phí đắt đỏ cho những đường dây này.
0.2.4 Các đặc trưng của TMĐT
So với các hoạt động Thương mại truyền thống, TMĐT có một số điểm khác biệt
cơ bản sau:
- Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với nhau và
không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành
giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền,
séc hoá đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax, telex… chỉ
được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện
điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp
giữa hai đối tác của cùng một giao dịch.
- Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái
niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị trường không
có biên giới (cạnh tranh thống nhất toàn cầu). TMĐT trực tiếp tác động tới môi
trường cạnh tranh toàn cầu.
TMĐT càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp
hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Với TMĐT, một doanh nghiệp dù mới thành lập
đã có thể kinh doanh ở bất kỳ đâu mà không hề phải bước ra khỏi nhà - một công việc
trước kia phải mất rất nhiều thời gian.
- Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao dịch
thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung cấp dịch vụ
mạng, các cơ quan chứng thực… là những người tạo môi trường cho các giao
dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ
chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT, đồng
thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT.
- Đối với thương mại truyền thống, mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao
đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT, mạng lưới thông tin là thị trường.
0.2.5 Các loại hình giao dịch TMĐT
Trong TMĐT có ba chủ thể tham gia: Doanh nghiệp (B) giữ vai trò động lực phát
triển TMĐT, người tiêu dùng (C) giữ vai trò quyết định sự thành công của TMĐT và
chính phủ (G) giữ vai trò định hướng, điều tiết và quản lý. Từ các mối quan hệ giữa các
chủ thể trên ta có các loại giao dịch TMĐT: B2B, B2C, B2G, C2G, C2C… trong đó
B2B và B2C là hai loại hình giao dịch TMĐT quan trọng nhất.
Bảng 1-1: Các loại hình giao dịch TMĐT
Chủ thể
Doanh nghiệp
(Business - B)
Khách hàng
(Customer - C)
Chính phủ
(Government – G)
Doanh nghiệp B2B B2C B2G
(Business - B)
Thông qua Internet,
Internet, Extranet, EDI
Bán hàng qua mạng Thuế thu nhập và
thuế doanh thu
Khách hàng
(Customer - C)
C2B
Bỏ thầu
C2C
Đấu giá trên eBay
C2G
Thuế thu nhập
Chính phủ
(Government – G)
G2B
Mua sắm công cộng
trực tuyến, các quy
trình thương mại, …
G2C
Quỹ hỗ trợ trẻ em,
sinh viên học
sinh…
G2G
Giao dịch giữa các
cơ quan, chính phủ
0.2.5.1 Business – to – Business (B2B): mô hình TMĐT giữa các doanh nghiệp với
doanh nghiệp
TMĐT B2B là việc thực hiện các giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau trên
mạng. Ta thường gọi là giao dịch B2B. Các bên tham gia giao dịch B2B gồm: người
trung gian trực tuyến (ảo hoặc click – and – mortar), người mua và người bán. Các loại
giao dịch B2B gồm: mua ngay theo yêu cầu khi giá cả thích hợp và mua theo hợp đồng
dài hạn, dựa trên đàm phán cá nhân giữa người mua và người bán.
• Thị trường B2B có hai thành phần chủ yếu
- Hạ tầng ảo (e – frastructure) là cấu trúc của B2B, bao gồm:
• Hậu cần – vận tải, nhà kho và phân phối;
• Cung cấp các dịch vụ ứng dụng – tiến hành, máy chủ và quản lý phần mềm
trọn gói từ một trung tâm hỗ trợ;
• Thuê ngoài các chức năng trong chu trình TMĐT như thuê chỗ máy chủ Web,
bảo mật và giải pháp chăm sóc khách hàng;
• Các phần mềm giải pháp đấu giá cho việc điều hành và duy trì hình thức đấu
giá trên Internet;
• Phần mềm quản lý nội dung cho việc hỗ trợ quản lý và truyền tải nội dung
trang Web;
• Cho phép thương mại dựa trên Web.
- Thị trường ảo (e – markets): là những Website nơi mà người mua người bán trao
đổi qua lại với nhau và thực hiện giao dịch.
Ví dụ: IBM, Hewlett Packard (HP), Cisco, Dell…
• Các lợi ích của TMĐT B2B trong các thị trường đang phát triển
- Cắt giảm chi phí: có ba loại chi phí được giảm xuống đáng kể qua việc thực hiện
TMĐT B2B
• Chi phí tìm kiếm. Trong thị trường B2B, người bán và người mua tập hợp lại
cùng với nhau trong một cộng đồng thương mại đơn nhất.
• Chi phí giao dịch
• Thúc đẩy việc quản lý kho hàng và hậu cần.
- Loại bỏ trung gian: Người cung cấp có khả năng trao đổi trực tiếp với người
mua, loại bỏ trung gian và nhà phân phối.
- Minh bạch trong giá cả: Internet cho phép việc xuất bản thông tin về một hoạt
động mua bán hoặc giao dịch, làm cho thông tin sẵn sàng được tiếp cận và sẵn có
với tất cả thành viên của thị trường mạng.
- Hơn thế nữa, thị trường mạng B2B mở rộng biên giới cho việc thương thuyết giá
cả cho dù ở đâu, nhiều người bán và người mua tham dự báo việc định hình giá
và đấu thầu hai chiều. Trong môi trường như vậy, những yêu cầu cho cả người
mua và người bán được tập hợp lại để đạt được những giá cạnh tranh, thấp hơn
những giá do từng cá nhân đưa ra.
- Hiệu ứng mạng và phạm vi của các nền kinh tế. Sự tăng trưởng nhanh chóng của
thị trường mạng B2B tạo ra nền kinh tế cung cấp dựa trên giá thành truyền thống.
• Các loại giao dịch B2B cơ bản:
(a) Một bên bán nhiều bên mua là mô hình dựa trên công nghệ Web trong đó một
công ty bán cho nhiều công ty mua. Có 3 phương pháp bán trực tiếp trong mô
hình này: bán từ catalog điện tử, bán qua quá trình đấu giá, bán theo hợp đồng
cung ứng dài hạn đã thoả thuận trước. Công ty bán có thể là nhà sản xuất loại
click – and – mortar hoặc nhà trung gian thông thường là nhà phân phối hay đại
lý.
(b) Một bên mua - nhiều bên bán
(c) Sàn giao dịch - nhiều bên bán - nhiều bên mua
(d) TMĐT phối hợp – các đối tác phối hợp với nhau ngay trong quá trình thiết kế
chế tạo sản phẩm
Người mua
Người bán
Công ty D
Công ty C
Công ty B
Công ty A
(a) Một bên bán –
Nhiều bên mua
Người bán
Người mua
Công ty D
Công ty C
Công ty B
Công ty A
(b) Một bên mua
- Nhiều bên bán
Một giao dịch
Người mua
(c) Nhiều bên mua - Nhiều bên bán
Người bán
Dịch vụ
Hình 1-1: Các loại giao dịch B2B cơ bản
0.2.5.2 Business – to – customer (B2C): Mô hình TMĐT giữa doanh nghiệp và người
tiêu dùng.
Đây là mô hình bán lẻ trực tiếp đến người tiêu dùng. Trong TMĐT, bán lẻ điện tử
có thể từ nhà sản xuất, hoặc từ một cửa hàng thông qua kênh phân phối. Hàng hoá bán
lẻ trên mạng thường là hàng hoá, máy tính, đồ điện tử, dụng cụ thể thao, đồ dùng văn
phòng, sách và âm nhạc, đồ chơi, sức khoẻ và mỹ phẩm, giải trí v v…
Mô hình kinh doanh bán lẻ có thể phân loại theo quy mô các loại hàng hoá bán
(tổng hợp, chuyên ngành), theo phạm vi địa lý (toàn cầu, khu vực), theo kênh bán (bán
trực tiếp, bán qua kênh phân bố).
Một số hình thức các cửa hàng bán lẻ trên mạng: brick – and – mortar là loại cửa
hàng bán lẻ kiểu truyền thống, không sử dụng Internet, click – and – mortar là loại cửa
hàng bán lẻ truyền thống nhưng có kênh bán hàng qua mạng và cửa hàng ảo là cửa hàng
bán lẻ hoàn toàn trên mạng mà không sử dụng kênh bán truyền thống.
0.2.6 Các hình thức hoạt động chủ yếu của TMĐT
0.2.6.1 Thư điện tử
Các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước, cá nhân, tổ chức, … sử dụng thư điện tử
để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư điện tử
(electronic mail, viết tắt là e – mail). Thông tin trong thư điện tử không phải tuân theo
một cấu trúc định trước nào.
0.2.6.2 Thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử là việc thanh toán tiền thông qua phương tiện điện tử, ví dụ, trả
lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua
hàng, thẻ tín dụng v v thực chất đều là dạng thanh toán điện tử. Ngày nay, với sự phát
triển của TMĐT, thanh toán điện tử đã mở rộng sang các lĩnh vực mới đó là:
Quản
lý
Chính phủ
Thành
phần khác
Người
mua
Người bán
Cộng đồng
Ngành công
nghiệp liên
Trường đại
học
(d) TMĐT phối hợp
- Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange, gọi tắt
là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch
với nhau bằng điện tử.
- Tiền lẻ điện tử (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành (ngân
hàng hoặc một tổ chức tín dụng nào đó) sau đó được chuyển đổi tự do sang các
đồng tiền khác thông qua Internet, áp dụng trong cả phạm vi một nước cũng như
giữa các quốc gia; tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiền mặt
này còn có tên gọi là “tiền mặt số hoá” (digital cash). Tiền lẻ điện tử đang trên đà
phát triển thanh, nó có ưu điểm nổi bật sau:
• Dùng để thanh toán những món hàng giá trị nhỏ vì phí giao dịch mua hàng và
chuyển tiền rất thấp;
• Có thể tiến hành giữa hai cá nhân hoặc hai công ty bất kỳ, các thanh toán là
vô danh;
• Tiền mặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được tiền giả.
- Ví điện tử (electronic purse). Là nơi để tiền mặt Internet, chủ yếu là thẻ thông
minh (smart card), còn gọi là thẻ giữ tiền (stored value card), tiền được trả cho
bất kỳ ai đọc được thẻ đó; kỹ thuật của túi tiền điện tử tương tự như kỹ thuật áp
dụng cho “tiền lẻ điện tử”. Thẻ thông minh, nhìn bề ngoài như thẻ tín dụng,
nhưng ở mặt sau của thẻ, có một chíp máy tính điện tử có một bộ nhớ để lưu trữ
tiền số hoá, tiền ấy chỉ được “chi trả” khi sử dụng hoặc thư yêu cầu (như xác
nhận thanh toán hoá đơn) được xác thực là “đúng.
- Giao dịch điện tử của ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là
một hệ thống lớn gồm nhiều hệ thống nhỏ:
• Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện tử, tại các điểm bán lẻ,
giao dịch cá nhân tại các gia đình, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch
qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, thông tin hỏi đáp, …
• Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán;
• Thanh toán nội bộ một hệ thống ngân hàng;
• Thanh toán liên ngân hàng.
0.2.6.3 Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange – EDI) là việc trao đổi các dữ
liệu dưới dạng “có cấu trúc”, từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa
các công ty hoặc đơn vị đã thoả thuận buôn bán với nhau.
Theo Uỷ ban liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), “Trao đổi dữ
liệu điện tử là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử
khác bằng phương tiện điện tử, có sử dụng một tiêu chuẩn đã được thoả thuận để cấu
trúc thông tin”.
EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu, chủ yếu phục vụ cho việc mua
và phân phối hàng (gửi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu gửi hàng, hoá đơn v.v…),
người ta cũng dùng cho các mục đích khác, như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các
kết quả xét nghiệm…
Trước khi có Internet đã có EDI, khi đó người ta dùng “mạng giá trị gia tăng”
(Value Added Network – VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau; cốt lõi của VAN
là một hệ thống thư điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được với nhau, và
hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm kiếm; khi nối vào VAN, một doanh
nghiệp có thể liên lạc với nhiều máy tính điện tử nằm ở nhiều thành phố trên khắp thế
giới.
Ngày nay, EDI chủ yếu được thực hiện thông qua mạng Internet. Để phục vụ cho
buôn bán giữa các doanh nghiệp thuận lợi hơn với chi phí truyền thông không quá tốn
kém, người ta đã xây dựng một kiểu mạng mới gọi là “mạng riêng ảo” (VPN – Virtual
Private Network), là mạng riêng dạng Internet của một doanh nghiệp nhưng được thiết
lập dựa trên chuẩn trang Web và truyền thông qua mạng Internet.
Công việc trao đổi EDI trong TMĐT thường gồm các nội dung sau:
- Giao dịch kết nối
- Đặt hàng
- Giao dịch gửi hàng
- Thanh toán
Vấn đề này đang được tiếp tục nghiên cứu và xử lý, đặc biệt là buôn bán giữa các
nước có quan điểm chính sách, và luật pháp thương mại khác nhau, đòi hỏi phải có một
hệ thống pháp lý chung trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do hoá thương mại và
tự do hoá việc sử dụng mạng Internet, chỉ như vậy mới đảm bảo được tính khả thi, tính
an toàn và tính có hiệu quả của việc trao đổi dữ liệu điện tử.
0.2.6.4 Truyền dữ liệu
Dữ liệu là nội dung của hàng hóa số, giá trị của nó không phải trong vật mang tin
mà nằm trong bản thân nội dung của nó. Hàng hoá số có thể được giao qua mạng. Trước
đây, dung liệu được trao đổi dưới dạng hiện vật bằng cách đưa vào đĩa, băng, in thành
sách báo, thành văn bản, đóng gói bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm
phân phối (như cửa hàng, quầy báo v.v…) để người sử dụng mua và nhận trực tiếp.
Ngày nay, dung liệu được số hoá và truyền gửi theo mạng, gọi là “giao gửi số hoá”
(digital delivery).
Các tờ báo, các tư liệu công ty, các catalog sản phẩm lần lượt được đưa lên Web,
người ta gọi là “xuất bản điện tử” (electronic publishing hoặc Web publishing), khoảng
2700 tờ báo đã được đưa lên Web gọi là “sách điện tử”…
0.2.6.5 Mua bán hàng hoá hữu hình
Đến nay, danh sách các hàng hoá bán lẻ qua mạng đã mở rộng, và xuất hiện một
loại hoạt động gọi là “mua hàng điện tử”, hay “mua hàng trên mạng”; ở một số nước,
Internet bắt đầu trở thành công cụ để cạnh tranh bán lẻ hàng hoá hữu hình. Tận dụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét