Chuyên đề tốt nghiệp - 5 - Đại học kinh tế quốc dân
cho người gửi tiền cũng như bù đắp chi phí hoạt động nên người vay vốn
ngoài việc phải trả nợ gốc còn phải trả cho NHTM một khoản lãi.
1.1.3. Phân loại cho vay:
Có thể dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại hoạt động cho vay
của NHTM. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
1.1.3.1. Theo phương thức cho vay:
- Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay theo đó, ngân hàng cho phép
người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn nhất định và trong một thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi. Thấu chi dựa trên cơ sở thu chi không phù hợp về thời gian và
quy mô. Căn cứ vào ngân quỹ mà ta có thể xác định thời gian và số lượng
thiếu để cho vay song không chính xác. Đây là hình thức ngắn hạn, linh hoạt,
thủ tục đơn giản, phần lớn không có đảm bảo. Hình thức này có thể cấp cho
doanh nghiệp và cá nhân trong vài ngày hoặc vài tháng trong năm nhưng chỉ
sử dụng cho khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập
ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Cho vay trực tiếp từng lần được sử dụng
tương đối phổ biến khi ngân hàng cho vay khách hàng không có nhu cầu vay
thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Khách hàng
khi mở rộng sản xuất kinh doanh, nếu số vốn chủ sở hữu và tín dụng thương
mại không đủ tài trợ thì khách hàng sẽ vay thêm ngân hàng. Như vậy vốn từ
ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất
kinh doanh. Khách hàng làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn
vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng sau đó đưa ra quyết định cho vay.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm
soát từng món vay tách biệt và đảm bảo khả năng tương đối an toàn do tiền
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 6 - Đại học kinh tế quốc dân
vay dựa vào tài sản đảm bảo, ngân hàng luôn kiểm tra mục đích và hiệu quả
sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức: Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn
mức tín dụng. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được
cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn
của khách hàng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Khách
hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn
mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng
vốn vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu
cầu vay. Ngân hàng sẽ kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ và ngân
hàng sẽ phát tiền vay.
Hình thức này áp dụng cho khách hàng có quan hệ vay mượn thường
xuyên, vốn vay thường tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy,
hình thức này thuận lợi cho khách hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách
hàng. Nhưng lại gây khó khăn cho ngân hàng vì các lần vay không tách biệt
thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của
từng lần vay.
- Cho vay luân chuyển: Đây là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển
hàng hóa. Ngân hàng sẽ cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi khách hàng
bán được hàng hóa. Cho vay luân chuyển dựa trên luân chuyển hàng hóa nên
cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng
hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển.
Khách hàng và ngân hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức
tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Khách hàng phải
cam kết hoàn trả khoản vay và sử dụng mọi khoản thu bán hàng để trả vào tài
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 7 - Đại học kinh tế quốc dân
khoản tiền vay trước khi trích vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
vay trả thường xuyên với ngân hàng.
- Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó khách hàng được phép
trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay. Cho vay trả góp thường được áp
dụng đối với các khoản vay trung - dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định và hàng
hoá lâu bền. Hình thức này thường được áp dụng đối với người tiêu dùng
thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số
hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp, sau đó khách hàng sẽ trả tiền trực
tiếp cho ngân hàng theo từng lần đã thỏa thuận. Hình thức này gặp rủi ro cao
vì tài sản thế chấp lại chính là hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ
thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do vậy, lãi suất cho vay trả góp
thường cao nhất trong các loại cho vay của ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Nhằm đa dạng hóa các hình thức cho vay, ngân hàng
phát triển hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua tổ
chức trung gian như là tổ, đội, hội, nhóm… Ngân hàng có thể chuyển một vài
khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như phát tiền vay hay
thu nợ…Khi người vay không có hoặc không có đủ tài sản đảm bảo thì các tổ
chức trung gian này đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành
viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay vốn.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng với thị trường có nhiều món
vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Như thế nó tiết kiệm chi phí
cho người vay. Hơn nữa nó còn làm giảm rủi ro cho ngân hàng do ngân hàng
quản lý được vốn vay thông qua các tổ chức trung gian. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp tổ chức trung gian đã lợi dụng vị thế của mình tăng lãi suất cho
vay hoặc giữ số tiền cho riêng mình.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 8 - Đại học kinh tế quốc dân
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác nhau tuỳ theo từng mục đích
nghiên cứu
1.1.3.2. Theo thời hạn cho vay:
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt
đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay đã được thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Căn cứ vào thời hạn cho vay thì cho vay có thể được chia thành ba loại:
- Cho vay ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài
trợ cho tài sản lưu động hoặc theo nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà
nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Các hình thức cho vay ngắn hạn được áp
dụng là cho vay từng lần hay cho vay theo hạn mức, cho vay trực tiếp hoặc
cho vay gián tiếp, cho vay có bảo đảm hoặc cho vay không cần bảo đảm, cho
vay thấu chi hoặc luân chuyển. Khách hàng sẽ làm đơn và trình bày với ngân
hàng kế hoạch sử dụng vốn vay. Từ đó ngân hàng thực hiện phân tích tín
dụng, tính toán hiệu quả sử dụng vốn, xem xét rủi ro, các nguồn trả nợ.
- Cho vay trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho tài sản cố định như
phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn. Bên cạnh đầu tư tài sản cố
định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên
của các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
- Cho vay dài hạn: trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà,
sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn và có thời gian sử dụng
dài. Cho vay dài hạn thường gắn với kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp, của
từng ngành, từng địa phương và trong một số trường hợp được nhà nước chỉ
định nguồn vốn có lãi suất ưu đãi.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 9 - Đại học kinh tế quốc dân
1.1.3.3. Theo tài sản bảo đảm:
- Cho vay có tài sản bảo đảm: Tài sản đảm bảo là hình thức hạn chế tổn
thất cho ngân hàng khi khách hàng gặp rủi ro. Ngân hàng yêu cầu khách hàng
phải có tài sản đảm bảo thế chấp khi muốn ngân hàng cấp tín dụng. Trên cơ
sở đó, ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá, thẩm định tài sản và sẽ quyết định cho
vay
- Cho vay không có tài sản bảo đảm: hình thức này thường áp dụng đối
với khách hàng quen thuộc, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy
ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay.
Đôi khi ngân hàng cho vay theo chỉ thị của Chính phủ thì không cần tài sản
đảm bảo bởi có sự bảo lãnh của Chính phủ. Đối với các công ty lớn, hoặc
những khoản vay ngắn hạn mà ngân hàng có khả năng giám sát tốt thì cũng có
thể không cần tài sản đảm bảo.
1.1.3.4. Theo mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức cho vay đối với
các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông
hàng hoá.
- Cho vay tiêu dùng: là hình thức cho vay đối với các cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền…
1.2. Vai trò, nguyên tắc và đặc trưng của bảo đảm tiền vay
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay:
Hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế có vai trò quan trọng.
Song hoạt động của các NHTM luôn tồn tại cùng với các rủi ro. Bên cạnh đó,
trong hoạt động kinh doanh của các NHTM thì hoạt động tín dụng là nguồn
thu chủ yếu của các ngân hàng nhưng cũng đem lại cho ngân hàng nhiều rủi
ro nhất. Vì vậy trong hoạt động tín dụng các ngân hàng phải có biện pháp để
giảm bớt rủi ro cho mình. Đó là những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng,
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 10 - Đại học kinh tế quốc dân
là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản tiền vay.
Biện pháp phổ biến mà các ngân hàng thường dùng là áp dụng cho vay có
đảm bảo bằng tài sản.
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín
dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng vay được cam kết bảo đảm
thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của
khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành
từ vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trả nợ đối với ngân hàng cho vay.
Theo nghị định của chính phủ số 178/1999 NĐ-CP ngày 29 tháng 12
năm 1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng thì: “Bảo đảm tiền
vay là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ
sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay”
Như vậy, Bảo đảm tiền vay là việc dùng tài sản hoặc uy tín của một cá
nhân hay tổ chức để đảm bảo cho một khoản vay. Khi bên đi vay không thực
hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của mình thì ngân hàng sẽ coi bảo đảm tiền vay là
nguồn thu nợ đã cho vay.
1.2.2. Vai trò bảo đảm tiền vay:
Rủi ro tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả
được lãi hoặc gốc hoặc cả hai. Khi rủi ro tín dụng xảy ra đó là những yếu tố
không bình thường trong quan hệ tín dụng, gây hậu quả xấu đến hoạt động
của ngân hàng như thiệt hại về tài sản, ảnh hưởng đến thu nhập của ngân
hàng, làm ngân hàng phá sản và tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Thường thì
rủi ro tín dụng được thể hiện dưới hai hình thức: rủi ro mất vốn và rủi ro đọng
vốn: rủi ro mất vốn là việc ngân hàng cho vay nhưng không thể thu hồi được
nợ hoặc chỉ thu hồi được một phần, còn rủi ro đọng vốn là khách hàng chậm
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 11 - Đại học kinh tế quốc dân
trễ trong việc trả nợ khi khoản vay đến hạn. Cho nên rủi ro tín dụng là mối đe
doạ của các NHTM. Vì vậy trong hoạt động kinh doanh của mình các NHTM
luôn chú trọng đến công tác phòng ngừa rủi ro. Việc hoàn thiện cũng như áp
dụng linh hoạt các hình thức bảo đảm tiền vay sẽ là một trong những biện
pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả nhất vì:
Thứ nhất, Bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý để có
nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được. Khi
xem xét cấp tín dụng, ngân hàng đã xác định nguồn trả nợ thứ nhất như: cho
vay tiêu dùng nguồn trả là thu nhập của khách hàng, cho vay vốn lưu động
nguồn trả là doanh thu… Nhưng trong hoạt động kinh doanh có thể gặp phải
bất kỳ việc gì kể cả những việc bất khả kháng và từ phía khách hàng làm cho
nguồn trả nợ thứ nhất không thể thực hiện được, nếu như không có nguồn trả
nợ thứ hai thì các ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro tín dụng. Vì vậy để bảo vệ lợi
ích của chính của chính mình, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải
có những bảo đảm cần thiết.
Thứ hai, Bảo đảm tiền vay gắn kết trách nhiệm vật chất của người đi vay
trong quá trình sử dụng vốn vay tránh tình trạng khách hàng sử dụng vốn vay
sai mục đích hoặc thiếu hiệu quả gây nên tổn thất và rủi ro cho ngân hàng.
Bảo đảm tiền vay còn ràng buộc trách nhiệm vật chất, buộc khách hàng phải
thận trọng trong việc sử dụng vốn vay làm sao để đảm bảo tính hiệu quả và
hợp pháp, trả nợ cho ngân hàng đúng hạn để thu hồi tài sản đảm bảo thuộc sở
hữu của mình và nâng cao uy tín với ngân hàng tạo điều kiện thiết lập quan hệ
tín dụng lâu dài. Ngoài ra bảo đảm tiền vay còn ràng buộc trách nhiệm trả nợ
khi họ cố tình lơ đi nghĩa vụ trả nợ của mình.
Thứ ba, Bảo đảm tiền vay là một trong những điều kiện để các tổ chức cá
nhận được cấp tín dụng, là bước khởi đầu trong quan hệ tạo lập tín dụng với
NHTM vì đây là điều kiện để cấp tín dụng. Ví dụ như một khách hàng giao
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 12 - Đại học kinh tế quốc dân
dịch lần đầu với ngân hàng, có phương án kinh doanh khả thi song khả năng
tài chính chưa tốt và uy tín với ngân hàng sẽ khó cho ngân hàng trong việc
đưa ra các quyết định cấp tín dụng. Nhưng nếu có tài sản đảm bảo hoặc có
bảo lãnh của bên thứ ba sẽ giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong quyết định của
mình, tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Ngoài ra, nhằm phòng tránh có sự sai sót về thẩm định khách hàng vay
vốn hoặc khách hàng cố ý gian lận thì bảo đảm cho khoản vay cũng là biện
pháp phòng chống gian lận hiệu quả.
Nói chung bảo đảm tiền vay có vai trò quan trọng đối với NHTM, khách
hàng vay vốn và toàn bộ nền kinh tế, giúp tạo lập quan hệ giữa ngân hàng và
khách hàng, giúp ngân hàng phòng chống rủi ro, đảm bảo an toàn vốn trong
kinh doanh. Song nếu quá chú trọng đến bảo đảm tiền vay hoặc đặt vai trò của
bảo đảm tiền vay không đúng chỗ, coi bảo đảm tiền vay là cơ sở quyết định
cho vay mà không quan tâm đến các yếu tố khác sẽ dẫn đến giảm chất lượng
tín dụng. Bảo đảm tiền vay là biện pháp phòng vệ khi gặp sự cố trọng hoạt
động tín dung chứ không phải là nguyên tắc cấp tín dụng, phải biết vận dụng
linh hoạt các biện pháp bảo đảm tiền vay để giảm bớt rủi ro, tạo điều kiện cho
hoạt động tín dụng phát triển, nâng cao uy tín của ngân hàng.
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay:
Theo điều 4 của nghị định của Chính phủ số 178/1999 NĐ/CP quy định
nguyên tắc của bảo đảm tiền vay là:
Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có
bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định của Nghị định
này và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng
nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 13 - Đại học kinh tế quốc dân
phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay được Chính
phủ xử lý.
Khách hàng vay được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, tổ chức tín dụng
phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng, thì tổ
chức tín dụng có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu
hồi nợ trước hạn.
Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay theo quy
định của Nghị định này và quy định của pháp luật có liên quan để thu hồi nợ
khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc
bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay
hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã
cam kết.
1.2.4. Các đặc trưng bảo đảm tiền vay:
Nói chung bất kỳ tài sản hoặc quyền về tài sản được phép giao dịch mà
có khả năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm bảo đảm. Tuy nhiên
nhìn từ góc độ NHTM thì bảo đảm tiền vay phải thể hiện được 3 đặc trưng
sau:
- Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm:
Bảo đảm không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà có ý nghĩa thúc
dục người đi vay phải trả nợ đúng hạn, ràng buộc trách nhiện vật chất. Nhưng
nếu giá trị của tài sản nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì người đi vay dễ có
động cơ không trả nợ.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 14 - Đại học kinh tế quốc dân
Nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các
chi phí khách trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các loại phí không
thuộc phạm vi bảo đảm được thực hiện nghĩa vụ.
- Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ:
Nghĩa là tài sản bảo đảm phải có tính thanh khoản, dễ trao đổi mua bán
trên thị trường. Tính thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của ngân
hàng thương mại. Nếu tính thanh khoản cao, tài sản dễ chuyển nhượng thì
mức độ bảo đảm cao, còn nếu tính thanh khoản trung bình có thể chấp nhận
được nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. Ngược lại, tài
sản có tính thanh khoản thấp ngân hàng thường không chấp nhận vì nguy cơ
rủi ro cao.
- Có đầy đủ cơ sở pháp lý để NHTM có quyền ưu tiên về xử lý tài sản
bảo đảm:
Tài sản phải thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay, người bảo lãnh và
được pháp luật cho phép giao dịch để tạo điều kiện cho ngân hàng dễ dàng
thực hiện hành vi chuyển giao, phát mại khi khách hàng không thực hiện
được nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
Tài sản phải được pháp luật thừa nhận và không thuộc diện cấm giao
dịch. Điều này đảm bảo cơ sở pháp lý trong việc chuyển giao tài sản từ người
đi vay sang người cho vay, đồng thời tránh những rắc rối phát sinh khi xảy ra
sự cố, bảo đảm để ngân hàng có quyền ưu tiên về xử lý tài sản nhằm thu hồi
nọ khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình.
Tóm lại, Bảo đảm tiền vay vừa là nguồn thu nợ vừa có ý nghĩa tác động
đến việc sử dụng vốn vay và thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Một
khoản bảo đảm tiền vay có hiệu lực khi và chỉ khi nó có đầy đủ các đặc trưng
trên.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét