Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN Ở TỈNH THÁI BÌNH

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
tôm, tôm hùm, cá biển (cá mú, cá giò, cá hồng, cá cam…), nhuyễn thể
(nghêu, sò huyết, ốc hương, trai ngọc…).
b. Trồng rong câu, rong sụn: Những tỉnh trồng rong câu chủ yếu ở Việt Nam
là Hải Phòng, Thừa Thiên Huế và Bến Tre. Rong sụn là loài mới được nhập
và trồng có kết quả, đang được nhân rộng ở nhiều địa phương ở miền Trung
và Nam Bộ. Nhìn chung, với những nỗ lực trong việc mở rộng diện tích nuôi
trồng thuỷ sản; ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất giống; chú trọng
những đối tượng nuôi thế mạnh của từng vùng; áp dụng phương thức nuôi
tiên tiến, đem lại hiệu quả cao, nhất là áp dụng công nghệ nuôi công nghiệp
chu trình khép kín, ít thay nước đối với đối tượng tôm sú; phát triển các khu
nuôi trồng thuỷ sản công nghệ cao, v.v… hoạt động nuôi, trồng các loài
động, thực vật thuỷ sinh đã thu được kết quả vượt bậc, tỷ lệ sản lượng thuỷ
sản nuôi trồng trong tổng sản lượng thuỷ sản đã tăng từ 29,16% năm 2001
đến 35,08% năm 2003.
Như vậy để phát triển ngành thuỷ sản thì không thể chỉ quan tâm đến
khai thác truyền thống mà hiện nay và sau này cần tập trung các nguồn lực
vào phát triển hai tiểu ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Đặc biệt ưu
tiên phát triển nuôi trồng thuỷ sản vì phát triển tiểu ngành này có ý nghĩa
chiến lược trong quá trình phát triển ngành thuỷ sản nói chung.
2. Đặc điểm của ngành thuỷ sản
2.1. Đối tượng sản xuất là các sinh vật trong nước
Các loài động thực vật sống trong môi trường nước mặt là đối tượng
sản xuất của ngành thuỷ sản. Môi trường nước mặt cho sản xuất thuỷ sản
gồm có biển các mặt nước trong nội địa. Những sinh vật sống trong môi
trường nước, với tính cách là đối tượng lao động của ngành thuỷ sản, có một
số đặc điểm đáng lưu ý sau:
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
- Về trữ lượng, khó xác định một cách chính xác trữ lượng thuỷ sản có
trong một ao hồ hay ngư trường. Đặc biệt ở các vùng mặt nước rộng lớn, các
sinh vật có thể di chuyển tự do trong ngư trường hoặc di cư từ vùng này
sang vùng khác không phụ thuộc vào danh giới hành chính. Hướng di
chuyển của các luồng tôm cá chịu tác động của nhiều nhân tố như thời tiết
khí hậu, dòng chảy và đặc biệt là nguồn thức ăn tự nhiên. Để bảo vệ, tái tạo
và khai thác có hiệu các nguồn lợi thuỷ sản, một mặt cần phân chia ranh giới
mặt nước, mặt biển, vùng biển giữa các địa phương hay các quốc gia nhưng
mặt khác cũng cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các địa phương.
- Các loài sinh vật trong nước sinh trưởng và phát triển chịu sự tác
động nhiều của điều kiện thời tiết, khí hậu, dòng chảy, địa hình thuỷ văn…
Trong nuôi trồng thuỷ sản, cần tạo những điều kiện thuận lợi cho sinh
trưởng và phát triển cao của các loại thuỷ sản như: tạo dòng chảy bằng máy
bơm, tạo ôxy bằng quạt sục nước.
- Các sản phẩm thuỷ sản sau khi thu hoạch hoặc đánh bắt đều rất dễ
ươn thối, hư hỏng vì chúng đều là những sản phẩm sinh vật đã bị tách ra
khỏi môi trường sống. Để tránh tổn thất trong sản xuất và nâng cao chất
lượng sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu từ khai
thác, nuôi trồng đến chế biến và kinh doanh tiêu thụ sản phẩm; từ khai thác
đến đầu tư tái tạo nguồn lợi, đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ một cách đồng bộ.
2.2. Thuỷ vực là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế
Các loại mặt nước bao gồm: sông, hồ, ao, mặt nước ruộng, cửa sông,
biển…gọi chung là thuỷ vực được sử dụng vào nuôi trồng và đánh bắt thuỷ
sản. Tương tự như ruộng đất sử dụng vào nông nghiệp, thuỷ vực là tư liệu
sản xuất đặc biệt, chủ yếu không thể thay thế của ngành thuỷ sản. Tuy nhiên,
nước là yếu tố quan trọng đối với mọi ngành kinh tế, thậm chí là điều kiện
của sự sống. Do vậy thuỷ vực có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
nhau của con người như để điều hoà môi trường, đáp ứng nhu cầu giao
thông thuỷ, du lịch sinh thái sông nước…Thông thường, thuỷ vực được sử
dụng theo hướng đa mục tiêu nhằm nâng cao hiệu quả sủ dụng chúng. Để sử
dụng có hiệu quả và bảo vệ thuỷ vực trong ngành thuỷ sản cần chú ý đến
những vấn đề sau:
- Thực hiện quy hoạch các loại hình thuỷ vực và xác định hướng sử
dụng thuỷ vực cho ngành thuỷ sản. Trong quy hoạch cần chú ý những thuỷ
vực có mục đích chính vào nuôi trồng thuỷ sản cần kết hợp với các hướng
kinh doanh khác.
- Chú trọng việc bảo vệ môi trường nước, kể cả nước biển. Thực hiện
những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn mọi nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường nước. Mặt khác, phải thường xuyên cải tạo thuỷ vực, tăng nguồn
dinh dưỡng cho các loại thuỷ sinh vật nhằm nâng cao năng suất sinh học của
thuỷ vực.
- Sử dụng thuỷ vực một cách tiết kiệm, đặc biệt cần hạn chế chuyển
đổi mục đích sử dụng thuỷ vực là các ao, hồ, các thùng đấu…sang đất xây
dựng cơ bản hay mục đích khác.
2.3. Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất có tính hỗn hợp, tính liên
ngành cao
Với tính cách là một ngành sản xuất vật chất, ngành thuỷ sản bao gồm
nhiều hoạt động sản xuất cụ thể có tính chất tương đối khác nhau nhưng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau như: khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch
vụ thuỷ sản. Khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, các hoạt động sản
xuất cụ thể nói trên chưa có sự tách biệt rõ rang, thậm chí còn lồng vào
nhau. Trong điều kiện như vậy, khối lượng sản phẩm sản xuất ra còn ít với
chất lượng thấp và chủ yếu đáp ứng như cầu thị trường nhỏ hẹp. Ngày nay,
dưới tác động mạnh mẽ của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
lao động xã hội làm cho các hoạt động sản xuất thuỷ sản được chuyên môn
hoá ngày càng cao.
Các hoạt động chuyên môn hoá khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch
vụ thuỷ sản có trình độ và quy mô phát triển tuỳ thuộc vào nhu cầu thị
trường và mỗi hoạt động lại dựa trên nền tảng nhất định về cơ sở vật chất kỹ
thuật và phương pháp công nghệ, tạo nên những ngành chuyên môn hoá hẹp
có tính chất độc lập tương đối. Tính hỗn hợp và tính liên ngành cao của các
hoạt động sản xuất có tính chất của một ngành sản xuất công nghiệp, vừa có
tính chất của sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu sản xuất ngành thuỷ sản (hay còn
gọi là cơ cấu ngành) và tập hợp các bộ phận những hoạt động sản xuất thuỷ
sản tương tự nhau và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận đó hợp thành
hệ thống sản xuất kinh doanh thuỷ sản.
2.4. Sản xuất kinh doanh thuỷ sản đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, độ rủi ro
cao
Hầu hết các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ sản đều đỏi
hỏi đầu tư ban đầu vốn lớn. Trong hoạt động nuôi trồng, nếu không kể
những hoạt động nuôi cá trong ao hồ có sẵn, nuôi cá ruộng, nuôi nồng ở
sông, suối thì hầu hết các hoạt động đầu tư nuôi thuỷ sản đều cần vốn lớn
như: đào ao thả cá trên đất canh tác hiệu quả thấp được chuyển đổi mục đích
sử dụng; đầu tư cải tạo đầm nuôi thủy sản ở ven biển, cửa sông… Trong
hoạt động đánh bắt, nhất là đánh bắt xa bờ đòi hỏi vốn đầu tư đóng mới tàu
thuyền lên tới hàng tỷ đồng. Nhu cầu đầu tư vốn ban đầu tương đối lớn cho
phát triển các hoạt động kinh tế như trên là vượt quá khà năng tự tích luỹ và
đầu tư của từng chủ thể kinh tế trong ngành thuỷ sản, đặc biệt là khả năng
của các hộ. Do vậy, để phát triển thuỷ sản, Nhà nước phải xây dựng và thực
hiện chính sách cho vay vốn theo các chương trình phát triển riêng của từng
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
ngành này như: cho vay trong chương trình khai thác xa bờ, tín dụng đầu tư
xây dựng các cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá theo quy hoạch…
Sản xuất nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản phụ thuộc nhiều vào điều kiện
tự nhiên nhất là điều kiện thuỷ văn, bão lũ. Đối với nước ta có bờ biển dài,
diễn biến bão lũ phức tạp đã gây thiệt hại nặng cho nghề nuôi trồng thuỷ sản
của cả một vùng hay một địa phương. Trong nhiều trường hợp, thiên tai có
thể gây thiệt hại cả đến tính mạng của các ngư dân, nhất là ngư dân đánh bắt
ngoài khơi. Để hạn chế những hậu quả này, cần chứ ý những vân đề chủ yếu
là:
- Cần đầu tư các phương tiện thực hiện dự báo khí tượng thuỷ văn
phát hiện và cảnh báo sớm các thiên tai. Xây dựng các vùng tránh bão cho
tàu thuyền đánh cá,
- Ban hành và thực thi những chính sách ưu đãi cho các vùng, hoạt
động kinh doanh nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, khắc phục rủi ro hay thiên
tai nhằm nhanh chóng ổn định đời sống phát triển sản xuất.
- Từng bước nghiên cứu xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm
đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành thuỷ sản.
3. Vai trò của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân
3.1. Ngành thuỷ sản cung cấp những sản phẩm thực phẩm quý cho tiêu
dùng của dân cư, cung cấp nguyên liệu cho phát triển một số ngành khác
Các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia về dinh dưỡng đã khẳng
định hầu hết các loại thuỷ sản đều là loại thực phẩm giàu đạm, dễ tiêu hoá,
phù hợp với sinh lý dinh dưỡng ở mọi lứa tuổi. Càng ngày thuỷ sản càng
được tin tưởng như một loại thực phẩm ít gây bệnh tật và ít chịu ảnh hưởng
của ô nhiễm hơn. Xét về thành phần dinh dưỡng cho thấy: so với các loại
thịt, các loại thực phẩm là thuỷ sản có chứa ít chất mỡ hơn, nhiều chất
khoáng hơn nhưng chất đạm cũng khá cao. Ví dụ trong thịt bò, tỷ lệ tính
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
theo phần trăm của đạm là 16,2 – 19,2%, của mỡ là 11 – 28%, chất khoáng
là 0,8 – 1%, cũng tương tự như tỷ lệ nói trên trong cá thu có tỷ lệ là: 18,6%,
0,4% và 1,2%; ở cá mối là: 16,4%, 1,6 – 2,3% và 1,2 %; ở cá hồng là 17,8%,
5,9% và 1,4%
Ngành thuỷ sản cung cấp một phần thức ăn cho chăn nuôi đặc biệt cho
chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Bột cá và các phế phẩm, phụ phẩm
thuỷ sản chế biến là nguồn thức ăn giàu đạm được sử dụng làm thức ăn hoặc
để chế biến thức ăn phục vụ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Theo tính toán của
FAO, hàng năm có khoảng trên 25% sản lượng thuỷ sản được sử dụng trực
tiếp vào chế biến thức ăn chăn nuôi.
Ngành thuỷ sản cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
và một số ngành công nghiệp khác. Nguồn nguyên liệu cung cấp cho công
nghiệp chế biến thực phẩm gồm tôm, cá, nhuyễn thể, rong biển…các nguyên
liệu thuỷ sản còn được sử dụng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp
dược phẩm, mỹ nghệ…
3.2. Ngành thuỷ sản phát triển sẽ có những đóng góp quan trọng trong
tăng trưởng của toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp nói chung
Ngành thuỷ sản là ngành kinh tế có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia
tăng. Vì vậy, phát triển mạnh ngành thuỷ sản, đặc biệt phát triển công nghiệp
chế biến thuỷ sản, sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành công
nghiệp. Để đánh giá vai trò của các khu vực, của ngành kinh tế, người ta
thường sử dụng hai chỉ tiêu chủ yếu, đó là tốc độ tăng trưởng của từng
ngành, khu vực và tỷ trọng của từng ngành, từng khu vực trong toàn bộ nền
kinh tế. Khi sử dụng hai chỉ tiêu nêu trên, cần chú ý hai trường hợp: tốc độ
tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng nhỏ hoặc nếu tỷ trọng lớn nhưng tốc độ tăng
trưởng thấp thì mức độ đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung là thấp. Ngày
nay, người ta đưa ra phương pháp đánh giá mới, đó là tỷ trọng đóng góp của
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
từng ngành, từng khu vực vào tốc độ tăng trưởng chung. Phương pháp này
cho phép đồng thời xét đến sự tác động theo cả hai chỉ tiêu tốc độ tăng
trưởng và tỷ trọng của từng ngành, khu vực trong tốc độ tăng trưởng chung.
Do vậy, chỉ tiêu đóng góp vào sự tăng trưởng của từng ngành, từng khu vực
cho thấy rõ hơn, lượng hoá được vai trò của từng ngành, từng khu vực trong
nền kinh tế.
3.3. Tham gia vào xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước
Đối với những nước có tiềm năng về thuỷ vực và nguồn lợi thuỷ sản,
phát triển ngành thuỷ sản tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị, thuỷ sản,
đến nay đã có những bước tiến quan trọng trong việc đổi mới công nghệ,
nâng cao sức cạnh tranh. Đã có 100 doanh nghiệp được EU công nhận đủ
điều kiện an toàn vệ sinh, hơn 120 doanh nghiệp được cấp phép vào thị
trường Mỹ. Các doanh nghiệp cũng từng bước nâng cao năng lực xúc tiến
thương mại để đi vào các thị trường mới. Đối với toàn ngành thuỷ sản đã có
những tiến bộ đáng kể về gắn kết giữa yêu cầu của thị trường ngoài nước (về
số lượng, chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm) với thực tiễn sản xuất kinh
doanh chế biến, nuôi trồng, khai thác với phát triển cơ sở hậu cần dịch vụ;
gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với yêu cầu vệ sinh trong nuôi trồng,
bảo quản và khai thác sản phẩm, gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với
chế biến phục vụ nhu cầu thị trường nội địa. Hiện nay sản phẩm thuỷ sản
Việt Nam đã xuất khẩu tới 75 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng
quy mô thị trường còn nhỏ bé, kể cả thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU…vì vậy
phải tiếp tục mở rộng thị trường này. Muốn vậy, cần đảm bảo ổn định và chủ
động về sản lượng, an toàn về vệ sinh và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Do
đó, việc gắn kết phát triển nguyên liệu với chế biến xuất khẩu một cách chặt
chẽ và toàn diện là đòi hỏi bắt buộc của phát triển bền vững ngành thuỷ sản
trong những năm tới.
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
3.4. Phát triển ngành thuỷ sản góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội đất
nước
Với nhiều lợi thế dặc biệt về mặt nước và nguồn lợi thuỷ sản, phát
triển mạnh mẽ ngành thuỷ sản nước ta sẽ góp phần phát triển kinh tế - xã hội
đất nước nói chung và kinh tế - xã hội nông thôn nói riêng. Về mặt kinh tế, ở
những địa phương thuộc duyên hải Trung bộ hoặc Tây Nam bộ, phát triển
thuỷ sản là con đường làm giàu của các chủ trang trại nuôi trồng thuỷ sản,
các chủ tàu đánh cá. Ở các địa phương không có tiềm năng về biển, đặc biệt
vùng nông thôn ngoại thành phát triển chăn nuôi thuỷ đặc sản là chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn cho hiệu quả cao. Về mặt xã hội, ở
các vùng nghèo, vùng sâu, vùng cao, phát triển chăn nuôi thuỷ sản ao, hồ,
sông suối tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào. Việc sản
xuất và tiêu dùng các sản phẩm thuỷ sản tại chỗ ở các vùng này còn góp
phần trực tiếp cải thiện dinh dưỡng bữa ăn, làm tăng sức khoẻ của người lớn
và giảm suy dinh dưỡng trẻ em. Ngoài ra, phát triển các trạm tàu khai thác
thuỷ sản xa bờ còn góp phần tăng cường an ninh quốc phòng cho vùng biên
giới biển đảo của Tổ quốc. Đối với một số vùng biển, vùng ngập nước ven
biển hay trong đất liền, phát triển thuỷ sản cũng góp phần vào phát triển
ngành du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch văn hoá.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến ngành thuỷ sản
4.1. Nhân tố tự nhiên
4.1.1. Thời tiết khí hậu
Thời tiết khí hậu có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nuôi trồng thuỷ
sản. Nếu thời tiết thuận lợi phù hợp với điều kiện sống của các loại thuỷ sản
thì chúng sẽ phát triển tốt, cho năng suất cao và ngược lại. Với một nền khí
hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm với bốn mùa làm cho dịch bệnh có điều kiện
phát triển mạnh. Bên cạnh đó, do có địa hình bờ biển kéo dài hàng năm mùa
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
mưa bão đến với những cơn bão mạnh và liên tiếp đã gây thiệt hại nặng nề
cho người dân.
4.1.2. Môi trường nước
Nước là một trong số những nhân tố quan trọng đối với ngành thuỷ
sản. Diện tích mặt nước không những quyết định sự tồn tại của các loại thuỷ
sản mà còn quyết định cả quy mô phát triển của ngành. Quốc gia, vùng nào
có diện tích mặt nước càng lớn thì càng có khả năng mở rộng phát triển
ngành thuỷ sản. Tuỳ thuộc vào từng loại thuỷ sản mà điều chỉnh diện tích
nước cho hợp lý. Do khí hậu ngày càng diễn biến thất thường, nguồn nước
mặn đang xâm nhập vào vùng nội đồng làm cho môi trường nước thay đổi
ảnh hưởng đến môi trường sinh sống của các loại thuỷ sản. Tận dụng được
điều này để phát triển những loài sống ở vùng nước lợ. Mặt khác do sự ô
nhiễm môi trường do con người như thuốc trừ sâu, phân bón, rác thái,… đã
làm thay đổi và ảnh hưởng tiêu cực đến việc nuôi trồng.
4.2. Nhân tố kinh tế - xã hội
4.2.1. Lao động
Nguồn lực lao động là yếu tố hàng đầu trong mọi hoạt động sản xuất
thuỷ sản. Lao động thuỷ sản gắn liền với lao động nông thôn. Do đặc điểm
tính chất kinh tế - xã hội của các tổ chức sản xuất thuỷ sản, chủ yếu là kinh
tế hộ, tư nhân, tập thể nên lực lượng lao động bao gồm cả những người
ngoài độ tuổi lao động mà có khả năng tham gia sản xuất. Lao động thuỷ sản
chuyên nghiệp là những người có thu nhập chủ yếu từ các hoạt động khai
thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ hậu cần thuỷ sản. Họ có những kiến
thức kỹ năng nghề nghiệp. Ngoài ra, còn một số lượng đông đảo lao động
thuỷ sản bán chuyên nghiệp, họ tham gia sản xuất thuỷ sản vào thời kỳ nông
nhàn hoặc kết hợp làm thủy sản vào trong quá trình sản xuất nông - lâm
nghiệp để tăng thêm thu nhập. Lao động thuỷ sản mang tính thời vụ, điều
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
này làm phức tạp thêm cho việc sử dụng lao động trong ngành thuỷ sản. Tuy
nhiên, lao động của con người cũng có thể hạn chế sự phát triển của ngành
thuỷ sản đó là khi con người tiến hành khai thác thuỷ sản bừa bãi như đánh
bắt thuỷ sản bằng thuốc nổ, thời kỳ cá đẻ, bắt cá bé… gây ô nhiễm môi
trường, làm cạn kết nguồn cá.
4.2.2. Vốn
Cũng như các ngành kinh tế khác, ngành thuỷ sản tiến hành sản xuất
thì cần phải có các tư liệu lao động như máy móc, thiết bị nhà xưởng, tư liệu
sinh học, các điều kiện vật chất phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh và
một khoản tiền để mua các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Tất cả các yếu tố đó
chỉ có thể đáp ứng được khi có vốn. Vốn sản xuất tác động vào toàn bộ quá
trình nuôi trồng và khai thác thuỷ sản thông qua môi trường nước và vật
nuôi. Có thể nói vốn có vai trò rất quan trọng đối với ngành thuỷ sản, ngành
có thể phát triển được hay không là còn phụ thuộc vào lượng vốn.
Có hai loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định là khoản tiền ứng trước để mua sắm tư liệu lao động. Tư
liệu lao động bao gồm những yếu tố đầu vào cần thiết như máy móc, thiết bị
cơ khí, nhà xưởng, các điều kiện vật chất phục vụ cho lao động…giá trị của
chúng được chuyển dần từng phần và sản phẩm mới. Vốn lưu động là khoản
tiền ứng trước để mua các yếu tố đầu vào dự trữ cho sản xuất. Chúng là loại
yếu tố chuyển ngay một lần toàn bộ vào sản phâm mới.
4.3.3. Thị trường tiêu thụ
Thị trường tiêu thụ sản phẩm là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản có vai trò quyết định đến việc chuyển
dịch cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng cao. Ngoài ra
thị trường tiêu thụ còn có vai trò quan trọng để kiểm nghiệm và chứng minh
tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách và biện pháp phát triển của cơ
Nguyễn Thị Trang Lớp: KTPT 47B
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét