Một đóng góp khác của Ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các
khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi
ro cho người gửi tiền. Thực tế các Ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi
ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa, làm cho Ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả
năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đồng đều thông tin và năng
lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “ thông tin không cân xứng”
làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi
cho Ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ
tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro -
lợi nhuận hấp dẫn nhất.
2.2. Tạo phương tiện thanh toán.
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh
toán. Các Ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại.Các Ngân hàng thợ
vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách
hàng. Giấy nhận nợ do Ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở
thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như
vậy, ban đầu các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho
tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu
thế, dần dần giấy nợ của Ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương
tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng
tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát
hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng
Trung Ương. Từ đó chấm dứt việc các Ngân hàng Thương mại tạo ra các
giấy bạc của riêng mình.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
5
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua Ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có
thể chi trả để có được hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm
hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy
trong lưu thông (Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch
của khách hàng tại các Ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản
tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…
Khi Ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do
đó , bằng việc cho vay các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh
toán( tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ Ngân hàng này đến Ngân hàng khác trên
cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay
để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một
khách hàng khác tại một Ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay
mới. Trong khi không một Ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn
dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống Ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền
gửi ( tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay
( tạo tín dụng)
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống Ngân hàng
tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ
lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua Ngân hàng, tỷ
lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán…
2.3. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
6
trị hàng hoá và dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết
kiệm chi phí, Ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức như
thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền gửi khi khách
hàng cần. Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông
qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
Công nghệ thanh toán qua Ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô
sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán
hiện đại qua Ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng
rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính
thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các Ngân hàng trong một
quốc gia mà còn giữa các Ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm
thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua
Ngân hàng, biến Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và
có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
3. Các hoạt động của Ngân hàng Thương mại.
3.1. Mua bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ Ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao
đổi (mua bán) ngoại tệ - một Ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền
này lẫy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài
chính hịên nay, mua bán ngoại tệ chỉ do các Ngân hàng lớn nhất thực hiện
bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu
phải có trình độ chuyên môn cao.
3.2. Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các Ngân hàng đã
tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng
là các khoản tiền gửi( thanh toán, tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
7
mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn
trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được các khoản tiền
gửi, các Ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách
hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép
Ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
3.3. Cho vay.
3.3.1. Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà
thực tế là cho vay đối với những người bán ( người bán chuyển các khoản
phải thu cho Ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ
chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là
người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất
kinh doanh.
3.3.2. Cho vay tiêu dùng.
Trong giai đoạn đầu hầu hết các Ngân hàng không tích cực cho vay
đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay
tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu
dùng và sự cạnh tranh trong cho vay buộc các Ngân hàng phải hướng tới
người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình
tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
3.3.3. Tài trợ dự án.
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các Ngân hàng
ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới
đặc biệt là trong nghành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng
này nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số Ngân hàng còn cho vay để
đầu tư vào đất.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
8
3.4. Bảo quản vật có giá.
Các Ngân hàng thực hiện và các vật có giá khác cho khách hàng trong
kho bảo quản. Ngân hàng giữ hàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận
(giấy chứng nhận do Ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ
lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như
tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của
Ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán
bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền
vào Ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của Ngân hàng. Đó là hình
thức đầu tiên của giấy bạc Ngân hàng. Ngày nay. vật có giá được tách
khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng, họ nhận thấy Ngân hàng
không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của
họ. Thanh toán qua Ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền
mặt, tức là người gửi tiền không cần đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần
viết giấy chi trả cho khách ( còn được gọi là sec), khách hàng mang giấy
đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng
tiền mặt ( an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần
rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân.
Khi Ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua Ngân hàng được mở rộng
phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến
khích các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng thanh
toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là
tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán
cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới
này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
9
nghiệp Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều
thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh
toán bằng điện, thẻ…
3.6. Quản lý Ngân quỹ.
Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh
nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, Ngân hàng thường có mối liên hệ chặt
chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và
khả năng trong việc thu ngân, nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách
hàng dịch vụ quản lý Ngân quỹ, trong đó Ngân hàng đồng ý quản lý việc
thu và chi của một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư
tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho
đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã
trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và
thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn
tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng. Trong điều kiện các Ngân
hàng tư nhân không muốn tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì
rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các
khoản vay của những Ngân hàng lớn. Khi Ngân hàng Trung ương thành
lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được
các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt
động và kiểm soát các Ngân hàng. Các Ngân hàng được cấp giấy phép
thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó
các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các Ngân hàng
phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
10
tiền gửi mà Ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều
kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
3.8. Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của Ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và
do Ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên Ngân hàng có uy
tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ
bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo
lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát
hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng…
3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn ( Leasing).
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê ( thay vì bán ) các thiết bị.
Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua ( do vậy còn được gọi là hợp
đồng thuê mua ). Rất nhiều Ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh
doanh quyền lựa chon thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp
đồng thuê mua, trong đó Ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê.
Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới
hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của Ngân hàng cũng
có nhiều điểm giống như cho vay, và được xếp vào tín dụng trung và dài
hạn.
3.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các Ngân hàng có rất nhiều
chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã
nhờ Ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ
uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát
hành , uỷ thác đầu tư… Thậm chí, các Ngân hàng đóng vai trò là người
được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
11
bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng
còn coi Ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn
sàng tư vấn đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp.
3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Nhiều Ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính
cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý
do chính khiến các Ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng
khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng
khoán. Trong một vài trường hợp, các Ngân hàng tổ chức ra công ty
chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các Ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn
phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
3.13. Cung cấp các dịch vụ đại lý.
Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp nơi. Nhiều Ngân hàng ( thường Ngân hàng
lớn) cung cấp dịch vụ Ngân hàng đại lý cho các Ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu
mối trong đồng tài trợ…
4. Các loại hình Ngân hàng Thương mại.
Có thể phân chia Ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo
yêu cầu của người quản lý.
4.1. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở
hữu.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
12
4.1.1. Ngân hàng sở hữu tư nhân.
Là Ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại Ngân
hàng thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương. Các Ngân
hàng này thường gắn liền với doanh nghiệp vá cá nhân ở địa phương. Chủ
Ngân hàng thường rất am hiểu tình hình của người vay, vì vậy hạn chế
được lừa đảo của khách. Tuy nhiên, do kém đa dạng nên khi địa phương
đó gặp rủi ro ( ví dụ thiên tai, mất mùa… ) ngân hàng thường không tránh
được tổn thất.
4.1.2. Ngân hàng sở hữu của các cổ đông ( Ngân hàng cổ phần) :
Ngân hàng này được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc
nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định
các hoạt động của Ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của Ngân
hàng đồng thời phải gánh chịu các tổn thất có xảy ra. Do vốn sở hữu được
hình thành thông qua tập trung, các Ngân hàng cổ phần có khả năng tăng
vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các Ngân hàng lớn. Các tổ hợp Ngân
hàng lớn nhất trên thế giới hiện nay là các ngân hàng cổ phần. Các ngân
hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có
nhiều chi nhánh hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hoá cao nên các
Ngân hàng cổ phần có thể giảm được rủi ro gây nên bởi tính chuyên môn
hoá ( thiên tai của một vùng, sự suy thoái của một nghành hoặc một quốc
gia… ), song chúng thường phải gánh chịu các rủi ro từ cơ chế quản lý
phân quyền ( nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương
đối độc lập với trụ sở Ngân hàng mẹ, giám đốc các chi nhánh này có thể
có hành vi lạm dụng hoặc bất cẩn gây tổn thất cho Ngân hàng).
4.1.3. Ngân hàng sở hữu Nhà nước.
Đây là loại hình Ngân hàng mà vốn sở hữu do Nhà nước cấp, có thể là
Nhà nước Trung ương hoặc Tỉnh, Thành phố. Các Ngân hàng này được
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
13
thành lập nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính
sách của các chính quyền Trung ương hoặc địa phương quy định. Tại các
nước đi theo con đường phát triển Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thường
quốc hữu hoá các Ngân hàng tư nhân hoặc cổ phần lớn, hoặc tự xây dựng
nên các Ngân hàng.Những Ngân hàng sở hữu Nhà nước thường được Nhà
nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị
phá sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các ngân hàng này phải thực
hiện các chính sách của Nhà nước có thể gây bất lợi cho hoạt động kinh
doanh.
4.1.4. Ngân hàng liên doanh.
Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc nhiều
bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để
tận dụng các ưu thế của nhau.
4.2. Các loại hình Ngân hàng Thương mại chia theo tính chất hoạt
động.
4.2.1. Hoạt động chuyên doanh và đa năng.
Ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh.
Loại Ngân hàng này chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng
ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp;
hoặc chỉ cho vay ( không bảo lãnh hoặc cho thuê)… Tính chuyên môn
hoá cao cho phép Ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm,
tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên, loại ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn
khi ngành hoặc lĩnh vực hoạt động mà ngân hàng phục vụ sa sút.
Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp,
trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những ngân hàng sở hữu của công
ty ( nhiều tập đoàn công nghiệp tổ chức ngân hàng để phục vụ cho các
thành viên của tập đoàn).
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét