Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
Từ năm 1970 trở lại đây, nguồn tài nguyên sinh vật biển của thế giới được
coi là hữu hạn, đặc biệt là những loại có ý nghĩa kinh tế. Nhiều loài bị khai thác quá
mức, vượt quá khả năng tái tạo của chúng, một số có nguy cơ tiệt chủng. So sánh
với sản lượng khai thác hàng năm ở nước ngọt thì ở biển và đại dương luôn vượt
hơn khoảng 50 lần. Nhịp độ khai thác tăng dần theo thời gian, thể hiện ở bảng sau:
Năm Nước mặn (triệu tấn) Nước ngọt (triệu tấn)
1950 17,6 3,2
1989 75 13,5
1990 90 25,5
2002 112 32,4
Tính toán trong vòng 50 năm cho thấy, tổng sản lượng đánh bắt cá trên thế
giới tăng 5 lần nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ. Hiện nay , tổng sản
lượng đánh bắt cá tập trung ở 6 nước: Nhật, Nga, Trung Quốc, NaUy, Peeeerru và
Mỹ, chiếm khoảng 80% sản lượng toàn thế giới.
2.1.2. Thực trạng tài nguyên khoáng vật và hóa học biển:
Tính toán trữ lượng hydrocacbon trong đại dương thế giới trên cơ sở xác
định khối lượng của các tầng trầm tích chỉ ra rằng trong đại dương tiềm chứa
khoảng trên 65% toàn bộ tầng chứa dầu tiềm năng của Trái đất, trong đó ở rìa ngầm
các lục địa chứa gần 38%. Theo tính toán của Cơ quan nghiên cứu Dầu mỏ Pháp,
trữ lượng dầu mỏ có thể khai thác được ở mức ngưỡng đạt tới 300 tỷ tấn, trong đó
dầu mỏ đại dương chiếm khoảng trên 135 tỷ tấn. Từ những năm 1970 đến nay, mỗi
năm thế giới có thêm 1,5 tỷ tấn trữ lượng dầu mỏ, và 10 năm gần đây, lượng dầu
mỏ khai thác được trong khoảng 2,6 đến 3,1 tỷ tấn.
Tập đoàn dầu khí BP(Anh) vừa công bố số liệu về tình hình năng lượng thế
giới, theo đó trữ lượng dầu mỏ được phát hiện trên thế giới năm 2009 đã tăng
0,05% so với năm 2008, từ 1332 tỷ thùng lên 1333 tỷ thùng do phát hiện thêm các
nguồn mới tại Arap Xeut và Indonesia. Theo đánh giá của OPEC trữ lượng dầu của
Iraq đã tăng 24% so với con số 115 tỷ thùng trong thập niên 70 của thế kỷ trước và
chỉ đứng sau Arap Xeut và Vênezuela. Hiện Arap Xeut là quốc gia đứng đầu về trữ
lượng dầu mỏ với 264,5 tỷ thùng.
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 5 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
Tuy nhiên trong thời gian vừa qua cũng xảy nhiều vụ tràn dầu gây ô nhiễm
nghiêm trọng. Vụ tràn dầu ngoài biển Timor, nổi tiếng với tên gọi vụ Montara, xảy
ra từ ngày 21-8 đến 3-11-2009, là vụ tràn dầu tồi tệ nhất trong lịch sử ở khu vực
biển ngoài khơi Úc, dù nhỏ hơn so với vụ BP ở vịnh Mexico. Giàn khoan West
Atlas ở khu vực Montara, nằm cách bờ biển Úc khoảng 200km, đã bốc cháy vào
ngày 21-8, dẫn tới tràn dầu với trung bình mỗi ngày 400 thùng đổ ra biển suốt 74
ngày liên tiếp.
Hình ảnh: vụ tràn dầu ngoài biển Timor (vụ Montara)
Tổ chức Bảo vệ Tây Timor, một hiệp hội nghề nghiệp hỗ trợ các ngư dân
nghèo ở đông Indonesia, ước tính vụ tràn dầu làm ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản
xuất của 18.000 ngư dân, trong đó nghiêm trọng nhất là các nghề nuôi trồng thủy
sản, nuôi ngọc trai và rong biển.
2.1.3. Thực trạng tài nguyên năng lượng biển:
Trên thế giới hiện nay, năng lượng tái tạo ngoài biển đã trở thành nguồn
năng lượng mới quan trọng. Ở Anh, tuabin dòng thủy triều, đập thủy triều, thiết bị
khai thác năng lượng sóng và tuabin gió ngoài khơi, phương án nào cũng có thể
cung cấp không dưới 20% nhu cầu điện năng của cả nước. Đến nay 100MW công
suất nguồn đã được lắp đặt tại Liên hiệp châu Âu. Trong đó công trình lớn nhất từ
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 6 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
xưa đến nay là dự án Horns Rev trải dài ngoài khơi cách bờ biển Đan Mạch từ 14
đến 20km, với 80 tuabin công suất 2MW.
Năng lượng thủy triều của toàn thế giới ước tính chừng 3 tỷ KW, lượng phát
điện hàng năm có thể đạt 1.200 tỷ độ. Con người đã luôn nghĩ cách làm thế nào để
tận dụng được nguồn năng lượng khổng lồ này bằng cách xây các nhà máy điện
Thủy triều công suất lớn.
Hình ảnh: Nhà máy điện thủy triều tại Hàn Quốc.
2.1.4. Thực trạng tài nguyên hàng hải và thông tin liên lạc biển:
Các chuyến vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng 40% còn lại là
đường bộ, sắt và hàng không là 60%. Năm 1869 khai thông kênh Suê, 1895 kênh
Kiel thúc đẩy vận tải biển phát triển mạnh mẽ. Đầu thế kỷ 20 hàng nguyên liệu công
nghiệp chiếm 2/3 khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. Sau chiến
tranh thế giới lần II, vận tải biển và thương mại thế giới phát triển không ngừng.
Tốc độ vận chuyển hàng hóa qua đường biển tăng liên tục khoảng 150.000
lần từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Đối với tàu chở dầu và chở hàng đạt mức siêu hạng
> 50.000 tấn. Với xu thế hiện nay thì vận tải hành khách tàu biển chiếm 2% tổng
lượng hành khách đi bằng các phương tiện giao thông.
2.1.5. Thực trạng các dạng tài nguyên biển khác:
Khí hậu biển thường ôn hòa, không khí bờ biển trong lành do chứa một
lượng lớn anion – một loại vitamin không khí. Khi hít thở các anion này đi vào cơ
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 7 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
thể cải thiện hoạt động của phổi, tăng khả năng hấp thụ khí oxi. Ngoài ra, nước biển
xanh trong và là một dung dịch muối tổng hợp rất tốt cho loại hình du lịch nghỉ
dưỡng, nhiều eo vụng sóng biển yên lặng thuận lợi cho du ngoạn. Vì vậy, các thiên
đường nghỉ dưỡng, công viên đại dương… mọc lên khắp các bờ biển của các nước
theo nhu cầu nghỉ ngơi ngày tăng của con người. Ví dụ như Montego là 1 trong
những thành phố hiện đại nhất vùng Caribbean. Nơi đây, có dãy đá ngầm trải dài
bao quanh vùng vịnh, nước trong xanh, quanh cảnh tuyệt diệu.
Hình ảnh: Bờ biển Montego, Jamaica.
2.2. Thực trạng tài nguyên biển tại Việt Nam:
2.2.1. Thực trạng tài nguyên sinh học biển Việt Nam:
Trong vùng biển nước ta, đến nay đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh
vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Các loài sinh vật đó thuộc về 6
vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có 3 vùng biển: Móng Cái- Đồ Sơn,
Hải Vân- Đại Lãnh và Đại Lãnh- Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn
các vùng khác. Trong tổng số loài được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật
đáy; 2.038 loài cá (trong đó có hơn 100 loài cá kinh tế); 653 loài rong biển; 657 loài
động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 8 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài
chim nước.
Được biết, trên diện tích gần 1.200 km
2
rạn san hô, có tới hơn 300 loài san
hô đá phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam. Sống gắn bó với các hệ sinh thái này là
trên 4.000 loài sinh vật sống dưới đáy và cá, trong đó có trên 400 loài cá, rạn san hô
cùng nhiều đặc hải sản.
a) Rừng ngập mặn:
Trước đây rừng ngập mặn nước ta có diện tích khá lớn 400.000 ha, tập
trung ở Nam bộ 250.000 ha, nhất là bán đảo Cà Mau, nay diện tích bị thu
hẹp chỉ còn khoàng 252.500 ha chủ yếu là rừng thứ sinh, rừng trồng, rừng
cây bụi.
Rừng ngập mặn ở phía Bắc thường nghèo nàn nhưng ở Nam bộ được
thừa hưởng nền nhiệt độ cao và những điều kiện thuận lợi khác “đe, hè”
chắn sóng, chống lại sự bào mòn của biển đối với lục địa, đồng thời còng là
công cụ của đất liền tiến chiếm đại dương.
b, Hải sản:
Theo sự phân bố của các vật thể hữu cơ trong biển thì biển Việt Nam
có mật độ cá vào loại trug bình trên thế giới và có đủ các loại hải sản chủ
yếu của các biển nhiệt đới khác. Trữ lượng đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu
tấn, có giá trị kinh tế cao nhưng chưa được khai thác đúng mức, chỉ mới đạt
60% mức có thể khai thác được hàng năm.
* Cá biển:
Theo đánh giá sơ bộ có khoảng trên 2000 loài cá trong đó có khoảng
trên 100 loài có giá trị kinh tế cao (cá thu, cá trích, ngừ, bạc má,…). Có đủ
các loại cá nổi, cá tầng giữa và cá tầng đáy. Nhưng nhiều hơn cả là cá nổi
chiếm 63% tổng trữ lượng cá biển. Trữ lượng cá biển nước ta đạt khoảng 3
triệu tấn, cho phép khai thác hàng năm từ 1,2 - 1,4 triệu tấn, trong đó gần
50% sản lượng phân bố ở vùng biển Nam Bộ.
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 9 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
Khả năng khai thác tốt nhất là ở độ sâu : 21 - 50 mét chiếm 58% khả
năng khai thác toàn vùng biển. Khu vực có độ sâu từ 51 - 100 mét chiếm
24%. Khu vực ven bờ từ 20 mét nước trở vào chiếm 18%. Mức khai thác
hiện nay đối với hải sản biển đã đến giới hạn cho phép, cần có biện pháp hạn
chế.
* Giáp xác, nhuyễn thể:
Biển nước ta có 1647 loại giáp xác trong đó có 70 loài tôm, có những
loài có giá trị xuất khẩu cao, như tôm he, tôm hùm, tôm sú. Nhuyễn thể có
hơn 2.500 loài. Ngoài ra còn nhiều đặc sản như hải sâm, bào ngư, sò, điệp,…
+ Tôm: Tôm là loại đặc sản có tiềm năng khai thác lớn và có giá trị
kinh tế cao, là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta hiện nay. Tôm
phân bố rộng khắp ở khu vực gần bờ từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, Cà
Mau, Bạc Liêu. Khả năng khai thác tôm biển khá lớn, trong đó trên 70% ở
viên biển Nam Bộ.
+ Mực: Khả năng khai thác mực là 30 - 40 ngàn tấn/năm và tập trung
nhiều ở vùng biển Trung bộ (45 - 50%). Đây là nguồn tài nguyên có giá trị,
mở ra triển vọng lớn cho việc khai thác và chế biến xuất khẩu trong tương
lai.
* Rong, tảo biển:
Dọc bở biển nước ta, từ vùng trên triều đến vùng dưới triều đều có
những thuận lợi cho đời sống của nhiều loài tảo bám. Đến nay, theo số liệu
thống kê (1994 - Nguyễn Văn Tiến) trong vùng nước ven bờ đã phát hiện
được 653 loài rong biển, 24 biến loài, 20 dạng, trong đó ở miền Bắc có trên
300 loài, ở miền Nam trên 500 loài. Trong chúng, 90 loài (14%) là những đối
tượng kinh tế quan trọng cho các ngành công nghiệp hoá chất dược liệu,
thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón. Các loài rong câu thường có giá trị
bậc nhất. Hiện nay, rong biển được trồng khá nhiều trong các đầm nước lợ.
c, Ngư trường và thực trạng khai thác hải sản:
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 10 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
Các nguồn lợi cá, tôm, mực… tập trung ở những vùng biển nhất định
gọi là ngư trường. Nước ta có 15 ngư trường trong đó 12 ngư trường ở ven
biển và 2 ngư trường ngoài khơi. Có 4 ngư trường trọng điểm được xác định
là : Ngư trường Minh Hải - Kiên Giang; ngư trường Ninh Thuận - Bình
Thuận , Bà Rịa - Vũng Tàu; ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư
trường quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa.
Hình ảnh: Ngư trường quần đảo Hoàng Sa.
Việc khai thác hải sản hiện nay tập trung ở các ngư trường lớn, đặc
biệt là ngư trường Đông Nam Bộ, thể hiện ở bảng sau:
Vùng Khả năng khai thác cho
phép (nghìn tấn/năm)
Thực trạng khai thác
(nghìn tấn/năm)
Vịnh Bắc Bộ 325 114
Ven biển Trung Bộ 240 200
Đông Nam Bộ 490 401
Tây Nam Bộ 250 213
2.2.2. Thực trạng tài nguyên khoáng sản biển Việt Nam:
Trong các vùng biển Việt Nam đã biết khoảng 35 loại hình khoáng sản có
quy mô trữ lượng khác nhau từ nhỏ đến lớn.
a, Dầu mỏ và khí đốt.
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 11 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
Nhiều nhà địa chất nước ngoài dựa vào những tài liệu mới mẻ đã mạnh dạn
dự đoán rằng, dầu mỏ của thềm lục địa Đông Nam Á có thể có “tầm cỡ Trung
Đông”.
-
Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10
tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác 4 – 5 tỷ tấn. Trữ lượng khí đồng hành 250 –
300 tỷ m3. Dầu khí đang có triển vọng lớn với điều kiện khai thác thuận lợi.
- Dầu mỏ ở đây được xác định trong các trầm tích trẻ, chủ yếu thuộc tuổi
Miôxen (khoảng 28 triệu năm về trước) và thường nằm ở độ sâu 1000 - 2000m.
- Hiện nay sản lượng dầu khai thác mỗi năm gia tăng từ 0,4 triệu (1986) lên
trên 7,0 triệu tấn (1995). Xuất khẩu thô đạt khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước.
- Theo những tài liệu thống kê hiện nay gần đây (1989) trữ lượng dầu mỏ
trên một số vùng được đánh giá vào khoảng 1.500 triệu tấn.
Vùng Trữ lượng dầu mỏ (triệu tấn)
Vịnh Bắc Bộ 500
Cửu Long 300
Biển Tây Nam Bộ (Vịnh Thái Lan) 300
Các vùng biển khác 400
b, Hoá chất và khoáng sản.
Bờ biển nước ta rất giàu có các chất : thạch anh, cát, sét, cao lanh, đá vôi,…
cùng nhiều các hợp chất khác của các nguyên tố hoá học. Đây là nguyên liệu quý
cho các ngành công nghiệp quan trọng.
Các vùng bãi biển còn chứa lượng nguyên tố đất hiếm lớn lao. Nguyên tố đất
hiếm không giống như một nguyên tố hoá học thông thường như vàng, sắt, ôxy,…
mà nó gồm 15 nguyên tố trong bảng HTTH của Menđêlêép (Thứ tự từ 57 tới 71).
Các dạng hỗn hợp của đất là flaridi, Mismetali (hỗn hợp kim loại của trất cả đất
hiếm)…
Biển nước ta rất giàu muối, nồng độ muối là 3,5% ngang với biển có độ mặn
trung bình thế giới. Suốt dọc bờ biển nước ta có nhiều chỗ có thể dựng được các
điểm trường để khai thác muối đặc biệt là các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 12 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
Ngãi, Khánh Hoà, Bình Thuận, Bà Rịa… Nghề làm muối là nghề truyền thống và
giữ vai trò thiết yếu đối với đời sống của nhân dân. Muối ăn cũng như lương thực,
thực phẩm, nước uống cần thiết cho đời sống của con người.
2.2.3. Thực trạng tài nguyên năng lượng biển Việt Nam:
a, Thủy triều, nhiệt biển, gió biển:
Một kho báu nữa của biển nước ta là nguồn năng lượng vô tận của thuỷ triểu,
nhiệt biển và gió biển. Các dạng năng lượng này rẻ tiền, sạch và trở thành năng
lượng của tương lai. Việt Nam nằm trong khu vực cận nhiệt đói gió mùa với bờ
biển dài nên có thuận lợi cơ bản để phát triển năng lượng gió. Ở vùng ven biển, số
giờ gió trong tháng là rất cao kể cả mùa hè cũng như mùa đông. Theo kết quả khảo
sát chi tiết về năng lượng gió, tại Việt Nam, tổng tiềm năng điện gió ước đạt
513.360 MW bằng hơn 200 lần công suất của Thủy điện Sơn La.
b, Năng lượng dòng chảy, sóng biển:
Tiềm năng sử dụng năng lượng dòng chảy ở nước ta nói chung khá lớn.
Dòng chảy không chỉ có lưu lượng lớn mà còn có lưu tốc ổn định do đó ẩn chứa
một nguồn năng lượng cực lớn. Nơi gặp gỡ của các dòng biển nóng và dòng biển
lạnh có rất nhiều hải sản , người dân có thể dựa vào đặc điểm này để đánh bắt hải
sản.
Sóng biển tạo ra nguồn năng lượng vô tận. Các kết quả tính toán cho thấy
năng lượng sóng dọc dải ven bờ của nước ta rất phong phú. Dòng năng lượng trung
bình yếu nhất đạt 15kW/m; mạnh nhất 30kW/m. Cụ thể vịnh Hạ Long, Quảng Ninh,
vịnh Gành Rái, Bà Rịa - Vũng Tàu hội tụ đủ ba yếu tố: Mật độ năng lượng
GWh/km
2
; tiềm năng GWh; hiệu suất GWh/km.
2.2.4. Thực trạng hàng hải và thông tin liên lạc trên biển Việt Nam:
a. Các đường hàng hải và cảng biển:
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường
quốc tế trong thời điểm hiện nay không chỉ phụ thuộc vào chất lượng và giá thành
của sản phẩm mà còn phụ thuộc nhiều vào chi phí vận tải mà doanh nghiệp đó phải
chi trả trong quá trình bao tiêu sản phẩm. Các mặt hàng được sản xuất trong nước
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 13 -
Tiểu luận “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”
nếu nhập nguyên liệu thô và xuất sản phẩm bằng đường thuỷ với các tàu biển có
trọng tải lớn sẽ là kênh tiêu thụ có hiệu quả, giảm đáng kể chi phí vận tải và tăng
hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, yếu tố cảng biển là vấn đề quan tâm hàng đầu của
các nhà đầu tư trong việc quyết định lựa chọn vị trí của dự án.
Đất nước ta có đường bờ biển dài 3.300 km, giao thông vận tải, buôn bán
bằng đường biển từ lâu đã là một thế mạnh. Cụ thể các cảng biển chính hiện nay
gồm: cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân ở miền Bắc, cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn ở
miền Trung và cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái ở miền Nam. Năm 2007, tổng khối
lượng hàng hoá thông qua các cảng tại Việt Nam là 177 triệu tấn, trong đó hệ thống
cảng Sài Gòn là 55 triệu tấn.
Hình ảnh: Cảng Hải Phòng.
Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các cảng biển Việt Nam chỉ mới đạt tiêu chí
cảng truyền thống với vai trò cơ bản là xếp dỡ hàng hoá. Trong số đó, có một số ít
cảng mới được xây dựng có khả năng phát triển để đạt được các tiêu chí của một
cảng hiện đại.
b. Tàu biển :
Theo thống kê hiện nay tình trạng tàu biển mang cờ Việt Nam bị lưu giữ ở
nước ngoài đang trong tình trạng báo động đỏ. Cơ quan chuyên môn đánh giá chất
Nhóm thực hiện: Nhóm 7 - 14 -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét