và xây dựng kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng và các công trình phúc lợi xã hội khác thì người nộp thuế thông qua đó
đựơc hưởng một phần kết quả nộp thuế của mình [22]. Như vậy thuế ở nước
ta luôn luôn là một khoản thu bắt buộc, không được hoàn trả trực tiếp cho
người nộp thuế nhưng họ được gián tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư,
phát triển của Nhà nước cho các công trình phúc lợi xã hội khác nhau [40]
[43].
1.1.2. Bản chất, chức năng của thuế
Từ khái niệm thuế nói trên ta có thể thấy được bản chất của thuế
được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của nó, những thuộc tính
đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển [43]. Nghiên cứu
về thuế, người ta thấy có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt với các
công cụ tài chính khác như sau :
a) Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp nhân
dân cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự. Tính bắt buộc phi hình sự
là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, phân biệt thuế với các hình thức huy
động tài chính khác của Ngân sách Nhà nước [43].
Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ
tiền tệ, được hình thành khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt, việc động
viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước ta [39].
Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một
phương thức phân phối của Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ
phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà
không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người
nộp thuế.
Tính cưỡng bức, bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ
những lý do sau :
5
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không
gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương
pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công
cộng Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc các đối
tượng có thu nhập phải chuyển giao [21].
Thứ hai, trong một xã hội hiện đại, các thành viên của cộng đồng
ngày càng có nhu cầu cao về hàng hóa công cộng [20]. Nhìn chung đại bộ
phận hàng hóa công cộng do Nhà nước sản xuất và cung cấp. Để sản xuất và
cung cấp hàng hóa công cộng tất yếu phải bỏ chi phí, các chi phí đó phải
được bù đắp từ nguồn thu nhập của những người thụ hưởng hàng hóa công
cộng. Song do tính chất của hàng hóa công cộng không thể phân bổ theo
khẩu phần để sử dụng và không muốn sử dụng theo khẩu phần, do đó, không
có tính cạnh tranh, không thể trao đổi theo cơ chế thị trường. Chính vì vậy
trong việc cung cấp hàng hóa công cộng xuất hiện “người ăn không” nghĩa là
không tự nguyện trả tiền cho việc thừa hưởng hàng hóa công cộng. Do vậy
để có chi phí cho việc cung cấp hàng hóa công cộng, Nhà nước chỉ có thể sử
dụng phương pháp bắt buộc “người ăn không” chuyển giao thu nhập từ khu
vực tư sang khu vực công [22].
Tuy nhiên tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là
hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi
biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa
vụ của người công dân [26].
Từ đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài
chính khác của ngân sách Nhà nước như phí, lệ phí, công trái hoặc hình thức
phạt bằng tiền. Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song
việc phạt bằng tiền chỉ xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm
luật lệ làm phương hại đến lợi ích nhà nước hoặc cộng đồng [31].
6
b) Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính
chất hoàn trả trực tiếp, biểu hiện ở các khía cạnh:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính
đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà
nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những
dịch vụ và hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp [43], [20]. Người nộp
thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ
công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao khoản thu
nhập cho Nhà nước, mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà
nước cũng không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao [1], [21]
Thứ hai, Khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không
hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được các
dịch vụ công cộng của Nhà nước. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt sự
khác nhau giữa thuế và các khoản phí, lệ phí [23].
c) Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định
trước bằng pháp luật.
Đặc điểm này, một mặt thể hiện tính pháp lí cao của thuế, mặt khác
phản ánh sự chuyển giao thu nhập này không mang tính chất tùy tiện mà dựa
trên những cơ sở khoa học nhất định và đã được xác định trong luật thuế.
Những tiêu thức thường được xác định trước đối với thuế là : đối tượng chịu
thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế
tài mang tính cưỡng chế khác [23].
d) Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh
hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định.
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của
nền kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự
biến động của ngân sách Nhà nước
7
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế của Nhà
nước, tâm lí, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hóa, xã hội
của dân tộc Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã
hội như vậy nên người ta thường nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã
hội tổng hợp [23].
e) Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới
hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lí của nhà nước đối
với con người và tài sản [23].
Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản
chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những thuộc tính đó giúp ta phân
biệt thuế với các hình thức động viên khác của ngân sách nhà nước trên
nhiều phương diện khác nhau.
1.1.3. Hệ thống thuế và phân loại thuế
1.1.3.1. Khái niệm hệ thống thuế
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức khác nhau mà giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết bao hàm việc xây dựng các sắc thuế, loại thuế;
phương pháp thu, nộp trên những nguyên tắc nhất định .Tùy thuộc vào khả
năng và ý đồ của từng Nhà nước trong việc điều tiết dòng thu nhập quốc dân,
ở những giai đoạn lịch sử cụ thể mà hình thành những hệ thống thuế khác
nhau. Tuy vậy, bất kỳ một hệ thống thuế nào cũng phải bao gồm 2 bộ phận :
Hệ thống chính sách thuế và Hệ thống quản lý thuế. Chính sách thuế là tổng
hợp các phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thu nộp thuế; quản lý
thuế là các biện pháp, thủ pháp thực hiện chính sách thuế để đạt được những
mục tiêu đã định
Khi xem xét hệ thống thuế của một quốc gia nhất định, người ta ít
chú ý đến số lượng của các sắc thuế, các loại thuế trong hệ thống đó, mà chủ
8
yếu đánh giá, xem xét đến khía cạnh chất lượng của nó. Mỗi quốc gia tùy
theo điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội ở từng giai đoạn cụ thể mà định hướng
xây dựng hệ thống thuế riêng của mình. Hệ thống thuế đó phản ánh những
mục tiêu của Nhà nước đặt ra [41].
Ở Việt nam, trong giai đoạn 1990 – 1998, Hệ thống chính sách thuế
đã được cải cách đáng kể, đã xây dựng được một hệ thống chính sách thuế
gồm 9 sắc thuế và một số loại phí, lệ phí, cụ thể :
- Thuế doanh thu
- Thuế hàng hoá
- Thuế lợi tức
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Thuế nông nghiệp
- Thuế tài nguyên
- Thuế nhà, đất
- Thuế thu nhập dân cư
- Thuế vốn
Và một số thuế mang tính chất lệ phí (như thuế môn bài, thuế sát
sinh…) [41].
Hệ thống chính sách thuế hiện nay được xây dựng và hoàn chỉnh có
tính pháp lý cao nhất đó là các văn bản Luật và đã đáp ứng được một số yêu
cầu của một hệ thống chính sách thuế hiện đại, đó là :
+ Về tài chính : Đã bao quát hết mọi nguồn thu có thể bồi dưỡng,
khai thác và động viên nhằm đáp ứng được nhu cầu chi tiêu cần thiết ngày
càng tăng của ngân sách nhà nước, tạo được phần tích lũy cho phát triển kinh
tế, xây dựng cơ sở hạ tầng .
9
+ Về kinh tế : Thực sự phát huy tác dụng là công cụ có hiệu lực của
Nhà nước tích cực góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tăng
cường hạch toán kinh tế, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh. Thực
hiện tốt chính sách kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập với khu vực và
thế giới.
+ Về xã hội : Từng bước thực hiện yêu cầu động viên đóng góp công
bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, giảm dần
khoảng cách chênh lệch về thu nhập và tiêu dùng xã hội, góp phần ổn định
chính trị, kinh tế, an toàn xã hội.
+ Về nghiệp vụ : Chính sách chế độ đã có sự đơn giản, rõ ràng, dễ
hiểu, dễ kiểm tra; phát huy được quyền dân chủ và nâng cao được trách
nhiệm và nghĩa vụ công dân về thuế [41].
1.1.3.2 Phân loại thuế
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, quản lý và tổ chức hành thu
trong thực tế, người ta tiến hành phân loại thuế theo một số tiêu thức nhất định.
1.1.3.2.1. Phân loại theo tính chất kinh tế của thuế
Theo cách phân loại truyền thống đã hình thành từ rất lâu, thuế được
chia thành hai loại : thuế trực thu và thuế gián thu. Sự phân loại này phụ
thuộc vào đối tượng đánh thuế, mối quan hệ tương hỗ giữa người nộp thuế
và nhà nước.
- Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp lên một khoản thu nhập (tiền
lương, lợi nhuận, lợi tức ) hoặc tài sản (ruộng đất, nhà cửa, chứng khoán )
nào đó của người nộp thuế.
Thuế trực thu thường đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của người nộp
thuế, dễ gây ra tâm lý bất bình trong nhân dân. Ở nước ta, trong hệ thống
thuế hiện hành, các loại thuế dưới đây được xem là thuế trực thu : như thuế
10
lợi tức, thuế thu nhập, thuế tài nguyên, thuế nhà đất và thuế sử dụng đất nông
nghiệp.
- Thuế gián thu là một loại thuế đánh vào hàng hoá, dịch vụ và được
ấn định dưới hình thức một khoản phụ thêm được cấu thành trong giá cả
hàng hoá, dịch vụ nhằm điều tiết một phần thu nhập của người tiêu dùng.
Khi áp dụng hình thức thuế gián thu, mối quan hệ giữa người nộp thuế
và nhà nước được thể hiện một cách gián tiếp.
Ngày nay, sự phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu không còn
rõ nét như trước đây. Ở giác độ hành chính đã có sự thống nhất quản lý đối
với hai loại thuế. Trong các hệ thống thuế hiện đại, còn tồn tại hai phương
thức thu thuế, nhưng mỗi phương thức đều tương ứng với hình thức thu gián
tiếp. Thuế lúc này sẽ do người chủ các đơn vị nộp đối với các khoản lương
bổng, hoặc do chủ ngân hàng nộp đối với các khoản tiền lãi về động sản, hay
do người bán hàng nộp đối với các khoản chi tiêu. Tuy nhiên, thuế trực thu
đáp ứng yêu cầu đánh thuế dựa trên khả năng chi trả hơn thuế gián thu, thuế
suất trung bình sẽ tăng khi thu nhập gia tăng, và những người có thu nhập
cao sẽ phải chịu thuế suất trung bình cao hơn [43].
1.1.3.2.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế
Phân loại theo đối tượng đánh thuế, hệ thống thuế bao gồm các loại:
- Thuế đánh vào hàng hoá: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập
khẩu, thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào thu nhập, như: thuế lợi tức, thuế thu nhập.
- Thuế đánh vào tài sản, như: thuế nhà, thuế đất, thuế chuyển quyền sử
dụng nhà, đất
- Thuế đánh vào các tài sản thuộc sở hữu công cộng, như: thuế tài
nguyên, thu vốn ngân sách.
11
Vận dụng cách phân loại này trong thực tế cho thấy hệ thống thuế bao
gồm nhiều loại thuế với những tác dụng riêng có khác nhau, từng loại thuế
phát huy vai trò điều tiết trong các lĩnh vực nhất định song chúng vừa hổ trợ,
bổ sung cho nhau để đảm bảo thực hiện chức năng toàn diện của hệ thống
thuế.
Ngoài ra còn một số cách phân loại như:
- Phân loại thuế dựa vào tính chất lũy tiến và lũy thoái
- Phân loại thuế theo chế độ phân cấp quản lý, điều hành ngân sách:
Thuế nhà nước, thuế địa phương
- Phân loại theo phương thức sử dụng: Thuế tổng hợp, thuế chuyên
dùng [43].
1.1.4. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Quản lý Nhà nước đối với kinh tế là một chức năng vốn có của Nhà
nước, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì nhất thiết vai trò đó càng được
coi trọng và phát huy. Với vai trò chủ yếu là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, sự can thiệp tích cực của Nhà nước thông qua hệ thống
Pháp luật, đặc biệt là pháp luật tài chính, thuế, ngân hàng, trong đó vai trò
của thuế trở nên cực kỳ quan trọng. Thuế được coi là công cụ điều tiết vĩ mô
nền kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, có ảnh hưởng to
lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Thuế điều tiết thu nhập trong xã hội và
góp phần đảm bảo công bằng xã hội [20].
∗
Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước :
Để có một nền tài chính Quốc gia lành mạnh chủ yếu phải dựa vào
nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay,
các khoản viện trợ giảm xuống nhiều thì thuế phải trở thành nguồn thu chủ
yếu của Ngân sách quốc gia, là một bộ phận cơ bản của chính sách tài chính
12
quốc gia. Sau 20 năm đổi mới tình hình kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến
tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau tăng hơn năm trước, bình quân
trong 5 năm 2001-2005 là 7,5% [42]. Lạm phát được kìm hãm và đẩy lùi, thị
trường được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng, tạo điều kiện cho sản xuất
trong nước phát triển. Quan hệ kinh tế đối ngoại từng bước được mở rộng và
phát triển hội nhập . Trong bối cảnh đó thu ngân sách hàng năm tăng đều đặn
năm sau cao hơn năm trước đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu
tư phát triển, góp phần tích lũy cho Ngân sách và cả việc chi trả nợ vay.
Được như vậy thuế đã góp phần tích cực trong việc tăng thu Ngân sách. Tỷ
lệ động viên GDP vào Ngân sách Nhà nước ngày càng tăng. Trong đó mức
động viên thuế và phí chiếm vai trò quan trọng.
0,000
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
Tong thu NS
81,980 83,570 108,960
So thu thue noi đia
65,486 70,943 90,671
2003 2004 2005
Đơn Vị Tính Nghìn Tỷ Đồng
Nguồn: Tổng Cục Thuế, 2005
Sơ Đồ 1 : Kết quả thu ngân sách của nước ta giai đoạn 2003 – 2005
Ngân sách Nhà nước được thu từ nhiều nguồn khác nhau: Từ thuế,
Phí - lệ phí, viện trợ nước ngoài, tín dụng nhưng thuế và phí, đặc biệt là thuế
là nguồn thu chủ yếu, là bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia. ở các
13
nước phát triển, thuế chiếm trên dưới 90% tổng thu ngân sách. Ở Việt Nam
vai trò của thuế trong tổng thu ngân sách chiếm tỷ trọng lớn ngày càng tăng.
Trong năm 1990 tỷ trọng thuế và phí trong Tổng thu ngân sách nhà nước
(NSNN) là 76,8%, năm 2001 tăng lên 96,5% và tỷ lệ điều tiết từ GDP hàng
năm khoảng 21-22%; tốc độ thu ngân sách qua các năm được thể hiện theo
biểu đồ trên về kết quả thu ngân sách của nước ta [37]
Với cơ cấu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Hệ thống thuế
được áp dụng thống nhất, đồng bộ giữa các thành phần kinh tế đã bao quát
toán bộ mọi hoat động sản xuất kinh doanh.
Các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng của xã hội thuế đã hoàn thành
được nhiệm vụ tập trung tích lũy ngân sách đảm bảo cho yêu cầu chi của
Nhà nước về các mặt: Chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển
∗∗
Thuế là công cụ quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Thuế là một công cụ sắc bén của Nhà nước để quản lý kinh tế - xã hội
với chức năng chủ yếu là đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hướng dẫn tiêu dùng khuyến khích sản xuất phát
triển theo định hướng của Nhà nước [32].
Một trong những yêu cầu có tính nguyên tắc là chính sách thuế phải
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Do vậy, bằng
các sắc thuế khác nhau áp dụng đối với từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau.
Nhà nước điều chỉnh quy mô đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Thực hiện cân đối hàng - tiền, cân đối cung cầu ở tầm vĩ mô, hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành, các vùng lãnh thổ giữa Trung
ương và Địa phương đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng tích lũy trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Đây là điều kiện quan trọng ổn định để thúc đẩy tốc
độ phát triển của nền kinh tế.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét