LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "mở rộng hoạt động cho vay tại ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông cửu long- chi nhánh hà nội": http://123doc.vn/document/1042939-mo-rong-hoat-dong-cho-vay-tai-ngan-hang-phat-trien-nha-dong-bang-song-cuu-long-chi-nhanh-ha-noi.htm
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)
1.1 Sự cần thiết mở rộng hoạt động cho vay của NHTM:
1.1.1 Khái niệm hoạt động cho vay:
Ngân hàng là một trong những tổ chức tín dụng quan trọng nhất của
nền kinh tế, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế hoạt
động. Hoạt động của ngân hàng chính là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế.
Cho vay là một trong rất nhiều dịch vụ của NHTM, chiếm vị trí rất
quan trọng trong hoạt động của các NHTM. Hoạt động chính của một NHTM
là huy động vốn và sử dụng nguồn vốn huy động nhằm thu được lợi nhuận.
Việc sử dụng vốn là quá trình tạo nên các khoản tài sản khác nhau của ngân
hàng, trong đó vay là khoản mục tài sản lớn nhất và quan trọng nhất.
Theo mục 2, điều 3/1627 – 2001/QĐ – NHNN, cho vay là một hình
thức cấp tín dụng theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
5
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận
với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Cho vay là quan hệ tín dụng bình đẳng, xuất phát từ lợi ích của doanh
nghiệp và ngân hàng. Đây không phải quan hệ cấp phát, xin – cho mà theo
nguyên tắc bên vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng sau một thời
gian nhất định được xác định trong hợp đồng cho vay. Trước khi trở thành
người cho vay, bản thân ngân hàng phải đi vay các tổ chức và cá nhân trong
xã hội. Doanh nghiệp vay vốn để có nguồn tài chính thực hiện các dự án đầu
tư, kinh doanh phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận của mình. Ngân hàng huy
động vốn vào và phải cho vay để lấy chênh lệch lãi suất tồn tại và phát triển.
Huy động vốn mà không cho vay thì các ngân hàng không thể tồn tại được.
Cho vay của ngân hàng có mối quan hệ qua lại mật thiết với tình hình
phát triển kinh tế của đất nước. Rõ ràng, cho vay là chức năng kinh tế hàng
đầu của ngân hàng – để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, góp phấn thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp; tài trợ hoạt động
chi tiêu của các cá nhân, chính phủ để đảm bảo những hoạt động bình thường
và cần thiết cho một nền kinh tế phát triển.
1.1.2 Sự cần thiết mở rộng hoạt động cho vay của NHTM
Trong thời đại kinh tế thị trường, dưới ảnh hưởng của công nghệ và
toàn cầu hóa, các NHTM cần phải đa dạng các loại hình dịch vụ và mở rộng
các hoạt động bằng cách vươn tới các thị trường mới trong và ngoài nước. Đa
dạng hóa và mở rộng thị trường là điều kiện hạn chế rủi ro và cung cấp cho
khách hàng về hình ảnh một ngân hàng toàn diện. Các ngân hàng tại Việt
Nam theo xu hướng đó nên cũng gia tăng mở rộng về địa bàn hoạt động cũng
như về loại hình dịch vụ.
Hoạt động cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng.
Hoạt động cho vay có hiệu quả thì ngân hàng mới làm ăn có lãi và tạo dựng
được thương hiệu của mình trên thị trường. Việc mở rộng hoạt động cho vay
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
6
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
không những giúp cho ngân hàng có được nhiều nguồn thu mà các nguồn thu
này được phân phối đều trong các ngành nghề, trong các lĩnh vực và trong các
thành phần kinh tế làm cho ngân hàng hạn chế và phân tán rủi ro khi có khủng
hoảng kinh tế hay trong thời kỳ khủng hoảng của chukỳ kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Thông qua hoạt động cho vay, các NHTM cũng tạo ra được lợi thế
cạnh tranh của mình. Các dịch vụ cho vay mà các NHTM cung cấp hầu như
đều giống nhau như: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, cho vay
theo món, cho vay theo hạn mức, Song muốn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho
mình, ngân hàng cần mở rộng các hoạt động cho vay này với cả chiều rộng và
chiều sâu. Chều rộng ở đây là đề cập tới địa bàn hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng hoạt động trong nhiều địa bàn trên một tỉnh hay thành phố hay ở
nhiều thành phố thì sẽ có nhiều cơ hội phát triển các dịch vụ hơn là các ngân
hàng có phạm vi hoạt động nhỏ. Còn chiều sâu là đề cập tới các tiện ích hay
dịch vụ đi kèm để tạo ra tính khác biệt cho hoạt động cho vay của một
NHTM. Việc mở rộng này sẽ tạo nên một thương hiệu riêng cho ngân hàng,
để khách hàng luôn nhớ đến một ngân hàng trong hàng trăm các ngân hàng có
nghiệp vụ giống hệt nhau.
Không những vậy, hoạt động cho vay còn giúp cho ngân hàng tăng uy
tín và quy mô. NHTM được biết đến như là một “người cho vay” chuyên
nghiệp. Ngân hàng nào cho vay càng nhiều, chiểm thị phần lớn trên địa bàn
đó thì ngân hàng đó càng uy tín. Như vậy, hoạt động cho vay góp phần tăng
uy tín của ngân hàng thông qua các khách hàng. Mở rộng hoạt động cho vay
giúp ngân hàng tăng lợi nhuận, khiến cho đời sồng nhân viên tăng lên, thu hút
nhiều nhân viên tốt và lại đem tới nhiều khách hàng tiềm năng, giúp cho quy
mô hoạt động của ngân hàng cứ thế nhân rộng.
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
7
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Như vậy, việc mở rộng hoạt động cho vay đã đem tới cho ngân hàng rất
nhiều lợi ích và đồng thời mở rộng hoạt động cho vay là một tất yếu trong xu
thế đất nước hội nhập và phát triển.
1.2 Các hình thức cho vay của NHTM
Phương châm chủ đạo trong hoạt động ngân hàng là đáp ứng mọi nhu
cầu vay hợp pháp của khách hàng. Nhưng để phù hợp với mỗi loại nhóm
khách hàng vay, mỗi loại nhu cầu vay và để có thể quản lý được các khoản
cho vay, ngân hàng thường chia hoạt động cho vay thành nhiều loại. Có nhiều
tiêu thức phân loại cho vay nhưng các ngân hàng thường phân loại theo một
số tiêu thức nhất định sau:
1.2.1 Căn cứ vào mục đích vay vốn của khách hàng:
* Cho vay kinh doanh hay còn gọi là cho vay công nghiệp và thương
mại : nhằm cung ứng vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp trang trải các chi phí như mua hàng nhập kho, trả
thuế, trả lương cho cán bộ công nhân viên
* Cho vay nông nghiệp nhằm hỗ trợ về vốn cho nông dân trang trải các
chi phí trong sản xuất nông nghiệp, như các chi phí của hoạt động gieo trồng,
thu hoạch và bảo quản sản phẩm.
* Cho vay cá nhân hay cho vay hộ gia đình nhằm tài trợ nhu cầu tiêu
dùng.
* Cho vay kinh doanh bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc
mua sắm và xây dựng bất động sản. Bao gồm cho vay xây dựng ngắn hạn và
giải phóng mặt bằng cũng như các khoản cho vay dài hạn tài trợ cho việc mua
đất canh tác, nhà, trung tâm thương mại và mua các tài sản nước ngoài. Đối
với loại hình cho vay này, ngân hàng được bảo đảm bằng các tài sản thực như
đất đai, toà nhà, và các công trình khác.
* Cho vay đối với các tổ chức tài chính là các khoản cho vay dành cho
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
8
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
* Cho vay khác: gồm các khoản cho vay không được xếp loại ở trên và
các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán.
Cách phân loại này giúp các NHTM thiết lập danh mục cho vay hướng
về khách hàng hay còn gọi là hướng ra thị trường, với cơ cấu tùy thuộc vào
đặc điểm của mỗi ngân hàng. Nó cũng giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt
động cho vay theo mục đích sử dụng vốn của khách hàng, ngược lại , khách
hàng cũng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với những nguồn cho vay. Đồng
thời, nó cũng là cơ sở để đưa ra những giới hạn an toàn trong hoạt động cho
vay và là một phần quan trọng trong việc xây dựng chiến lược cho vay có tính
cạnh tranh của một NHTM.
1.2.2 Căn cứ vào thời hạn cho vay và theo quy định hiện hành của Việt
Nam:
Theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN chia nghiệp vụ cho vay của
NHTM thành 3 loại sau:
* Cho vay ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng
* Cho vay trung hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng
đến 60 tháng (5 năm).
* Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên 60 tháng.
Trong thực tế, nghiệp vụ truyền thống của NHTM là cho vay ngắn hạn,
từ những năm 70 trở lại đây đã mở rộng cho vay trung và dài hạn.
Phân loại cho vay dựa vào thời hạn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng,
dựa vào đó ngân hàng có thể xác định được cơ cấu thời hạn cho vay, cân đối
kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản có và
tài sản nợ của NHTM, đặc biệt trong việc quản lý khe hở kỳ hạn, khe hở lãi
suất và khả năng thanh khoản để phòng tránh rủi ro. Hơn nữa, cho vay với
thời hạn cụ thể không chỉ là căn cứ để xác định các mức lãi suất cần thu của
ngân hàng, mà đồng thời giúp cho người vay có căn cứ để lựa chọn các thời
hạn vay phù hợp với nhu cầu sử dụng và giảm chi phí trả lãi đến mức có thể.
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
9
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
1.2.3 Căn cứ vào tính chất đảm bảo của khoản vay.
* Cho vay có đảm bảo bằng tài sản là loại cho vay mà khách hàng
phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba làm bảo
đảm.
* Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản là cho vay dựa vào sự tín
nhiệm của Ngân hàng đối với khách hàng.
Đảm bảo tiền vay là biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay và
hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Về mặt hình thức, cho vay có đảm bảo
về tài sản dường như có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay không có đảm bảo
bằng tài sản, nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy, đặc biệt là khi ngân
hàng cho vay tuyệt đối hoá vai trò của tài sản đảm bảo mà coi nhẹ các điều
kiện cho vay khác. Hơn nữa, ngân hàng còn có thể bị mất đi những khách
hàng tốt. Rõ ràng việc cho vay có đảm bảo bằng tài sản là cần thiết, nhưng
không thế coi nó là điều kiện tiên quyết khi cho vay. Xét ở góc độ hiệu quả
của nền kinh tế, néu cho vay không có đảm bảo bằng tài sản được mở rộng, dĩ
nhiên là đối với khách hàng đủ điều kiện, lại chứng tỏ rằng uy tín của người
cho vay là tốt, nền kinh tế đang phát triển lành mạnh và có triển vọng tốt.
Hiện nay, ở nước ta, tình trạng khách hàng thiếu tài sản đảm bảo khi vay vốn
là khá phổ biến đã làm cho hoạt động cho vay của ngân hàng gặp nhiều khó
khăn.
1.2.4 Căn cứ vào phương thức cho vay.
* Cho vay trực tiếp là việc ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người đi
vay và người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng, đây là hình thức cho
vay phổ biến và có tính truyền thống của NHTM. Nó có thể được thực hiện
bằng những phương thức như cho vay thấu chi, cho vay từng lần, cho vay
theo hạn mức tín dụng, cho vay luân chuyển, cho vay hợp vốn, cho vay trả
góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ
phát hành thẻ…
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
10
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Cho vay trực tiếp bao gồm:
- Cho vay thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép
người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến
một hạn mức nhất định và trong một khoảng thời gian xác định.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản,
phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân
vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trang trải lương, chi các
khoản phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhình chung chỉ sử dụng đối với
các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,
không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử
dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu
thời vụ, hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là
vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản
xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay,
xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu
cầu đảm bảo nếu cần. Trong suốt quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân
hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu they có dấu hiệu vi
phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn.
Do mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khế ước khác
nhau nên nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể
kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị tài sản đảm
bảo.
- Cho vay theo hạn mức:
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
11
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Đây là nghiệp vụ cho vay mà theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc
cuối kì. Đó là dư nợ tối đa tại thời điểm tính.
Cho vay theo hạn mức được duyệt trong kỳ là việc khách hàng có thể
thực hiện vay trả nhiều lần trong kỳ, song dư nợ không được vượt quá hạn
mức tín dụng.
Cho vay theo hạn mức cuối kỳ là dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn
mức, tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư
nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay.
Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát
tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi
khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý
ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các
kỳ hạn trả nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần
vay.
- Cho vay luân chuyển:
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hóa. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh
nghiệp bán hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn
nhập hàng và số tiền vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo
hình thức này, giá trị hàng hóa mua vào (có hóa đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
12
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều
là nguồn để chi trả cho ngân hàng.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho
các khách hàng do thủ tục vay được thực hiện một lần cho nhiều khoản vay và
khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho
người cung cấp sẽ nhanh gọn.
- Cho vay trả góp:
Đây là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả
gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng với các khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài
sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Ngân hàng cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà
khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận tiền ngay sau khi bán
hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách
hàng trả trực tiếp cho ngân hàng.
Tuy nhiên, đây là hình thức cho vay rủi ro cao, do khách hàng thường
thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập
đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút
thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên
cho vay trả góp lãi suất thường cao nhất trong khung lãi suất cho vay của
ngân hàng.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với
một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một
tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng
khác.
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
13
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
* Cho vay gián tiếp:
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân
hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho
vay thông qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay thông qua các tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất,
Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ…Các tổ chức này thường
liên kết các thành viên theo mục đích riêng, song chủ yếu để hỗ trợ lẫn nhau,
bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các
tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có
thể đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm
bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không
có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm
đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người
vay sử dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều
món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như
vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích, giám
sát, thu nợ…).
Tuy nhiên, bên cạnh đó, cho vay qua trung gian cũng bộc lộ nhiều hạn
chế như các trung gian đã lợi dụng vị thế của mình, để tăng lãi suất cho vay
lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán
lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay
vốn.
Như vậy, cách phân loại này tạo điều kiện cho ngân hàng có thể chuyên
môn hoá kỹ thuật nghiệp vụ cấp tín dụng, từ đó có thể nâng cao hiệu quả cấp
tín dụng bằng sự chuyên sâu và những kỹ năng đã được chuyên nghiệp hoá.
Phạm Tú Quỳnh Lớp: Tài chính doanh nghiệp
45A
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét