Những người con dân Chúa…
Quốc nằm chính giữa, đúng như tên gọi. Sau đó, họ vẽ biển nằm bên
dưới Trung Quốc, trong đó rải rác mấy đảo nhỏ, và họ đề tên: Âu
Châu, Phi Châu, Nhật Bản…”
6 năm truyền giáo tại Goa và tại Macao, tuy hơi ngắn ngủi,
cũng đủ giúp cha Alexandre de Rhodes có cái nhìn độc đáo và đúng
đắn nhất của vị thừa sai vào thế kỷ 17. Cha viết:
“Chúng ta thường tỏ ra quý chuộng những người ngoại giáo.
Nhưng khi họ trở thành Kitô hữu, chúng ta không đoái hoài đến họ
nữa. Thậm chí còn bắt các người theo đạo phải từ bỏ y phục địa
phương. Chúng ta đâu biết rằng, đây là một đòi buộc quá khắt khe, mà
ngay cả Thiên Chúa, Ngài cũng không đòi hỏi như thế! Chúng ta ngăn
cản người ngoại giáo, không cho họ cơ hội dễ dàng gia nhập Giáo Hội
Công Giáo. Riêng tôi, tôi cực lực phản đối những ai muốn bắt buộc
người đàn ông Trung Hoa, khi theo đạo, phải cắt bỏ mái tóc dài họ
vẫn để. Làm vậy, chúng ta gây thêm khó khăn cho các nam tín hữu
Trung Hoa, một khi theo đạo Công Giáo, không còn tự do đi lại trong
xứ, hoặc tìm được dễ dàng công ăn việc làm. Phần tôi, tôi xin giải
thích rằng, điều kiện để trở thành Kitô hữu là phải từ bỏ lầm lạc, chứ
không phải cắt bỏ tóc dài ”
Suy tư của cha Alexandre de Rhodes làm nổi bật ý tưởng của
vị thừa sai khôn ngoan, biết phân biệt giữa đòi buộc chính yếu của
Phúc Âm và lợi ích riêng tư của Âu Châu. Nhưng phải đợi đến 40
năm sau, 1659, nghĩa là một năm trước khi từ trần, cha Alexandre mới
trông thấy phương pháp truyền giáo của mình được Tòa Thánh chính
thức công nhận. Trong văn thư gửi các Giám Mục tiên khởi của Hội
Thừa Sai Paris, Bộ Truyền Giáo Các Dân Tộc, Cha viết:
“Đừng mất công thuyết phục các dân tộc Á Châu phải từ bỏ
các lễ nghi và tập tục của họ. Không gì ngu xuẩn cho bằng, muốn biến
đổi người Trung Hoa thành người của một quốc gia Âu Châu nào đó!
Đừng tìm cách đưa các tập tục của chúng ta vào xứ sở của họ, chỉ đưa
vào đó Đức Tin. Đức Tin không hề xua trừ cũng không làm tổn thương
các nghi lễ cùng các tập tục, miễn là các tập tục và nghi lễ này không
quá xấu xa”.
THỪA SAI TẠI VIỆT-NAM
Sau 6 năm giảng đạo tại Goa và Macao, vì thời cuộc biến
chuyển, Bề Trên lại chỉ định cha Alexandre de Rhodes đi Việt Nam.
5
Những người con dân Chúa…
Đầu năm 1625, cha Alexandre cùng với 4 cha dòng Tên khác
và một tín hữu Nhật-Bản, cập bến Hội An, Đà Nẵng. Cha bắt đầu
học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc Lộ. Thầy dạy tiếng Việt cho
cha là một thiếu niên trạc tuổi 10-12. Đây là một cậu bé thông minh.
Cha Đắc Lộ vô cùng mộ mến khi nói về vị thầy tí hon:
“Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả
các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của
từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Châu Âu, thế
mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả
những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học
đọc học viết tiếng La-tinh và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên
trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở
thành thày giảng giúp việc các Cha truyền giáo và là một dụng cụ tông
đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam
thân yêu của thầy và nơi vương quốc Lào láng giềng”.
Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của cha
Alexandre de Rhodes, tức giáo sĩ Đắc-Lộ. Tuy nhiên, duyên nợ của
cha đối với quê hương Việt-Nam, không xuôi chảy và vẹn toàn. Cuộc
đời truyền giáo thật bấp bênh và vô cùng trôi nổi. Trong vòng 20
năm, cha bị trục xuất đến 6 lần. Nhưng sau cả 6 lần ấy, cha đều tìm
cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép. Sau này, khi vĩnh viễn từ
biệt Việt Nam, Cha đau đớn thú nhận: “Trái tim tôi vẫn còn ở lại nơi
đó!”. Chính tình yêu đặc biệt cha dành cho Việt Nam đã giải thích
cho sự thành công của cha, trong lãnh vực truyền đạo cũng như trong
lãnh vực ngôn ngữ, văn hóa.
Thời gian cha Đắc Lộ giảng đạo tại Việt Nam cũng là thời kỳ
các Cha thừa sai Dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu hiệu. Riêng
6
Những người con dân Chúa…
Cha Đắc Lộ, Cha đã truyền đạo từ Nam ra Bắc. Cha kể lại công cuộc
truyền giáo tại Bắc Phần:
“Khi chúng tôi vừa đến kinh đô Bắc Kỳ, tức khắc nhà vua
truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một nhà thờ thật đẹp. Dân
chúng túa đến nghe tôi giảng đạo đông đến nỗi, tôi phải giảng đến 4
hoặc 6 lần trong một ngày. Chị vua và 17 người thân trong gia đình
vua xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnh và binh sĩ cũng
xin theo đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các vị sư đã
mau mắn từ bỏ bụt thần để theo đạo Công Giáo. Tất cả đều dễ dàng
chấp nhận khi tôi giải thích cho họ hiểu giáo lý đạo Công Giáo rất phù
hợp với lý trí và lương tâm con người. Các tín hữu Công Giáo Việt
Nam có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể rút Đức Tin ra
khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ suốt 15 ngày đường để được
xưng tội hoặc tham dự thánh lễ Nhưng phải thành thật mà nói, tôi
không thể chu toàn cách tốt đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu
không có trợ giúp tuyệt vời của các thầy giảng. Vì nhận thấy mình là
linh mục duy nhất giữa một cánh đồng truyền đạo bao la, nên tôi chọn
trong số các tín hữu, những thanh niên không lập gia đình và có lòng
đạo đức sâu xa cũng như có nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, để giúp
tôi. Những người này công khai thề hứa sẽ dâng hiến cuộc đời để
phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội, sẽ không lập gia đình và sẽ vâng
lời các Cha thừa sai đến Việt Nam truyền đạo. Hiện tại có tất cả 100
thầy giảng đang được thụ huấn trong chủng viện và được các tín hữu
trang trải mọi phí tổn”.
Nhưng rồi, cha Đắc Lộ không được ở mãi nơi quê hương Việt
Nam Cha hằng yêu mến. Năm 1645, cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn
trục xuất khỏi Việt Nam. Khi trở lại Âu Châu, cha Đắc Lộ vận dụng
mọi khả năng hiểu biết về công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu,
đã xin Tòa Thánh gửi các Giám Mục truyền giáo đến Á Châu, để các
ngài có thể truyền chức linh mục cho các thầy giảng bản xứ. Có thể
trong thời kỳ này, những bài giảng thuyết hùng hồn của cha Đắc Lộ
nơi đất Pháp đã gây chấn động mạnh trong tâm hồn các tín hữu Công
Giáo Pháp và đã gợi hứng cho việc thành lập Hội Thừa Sai Paris.
VỊ KHAI SINH CHỮ QUỐC-NGỮ
Năm 1651, chữ Quốc Ngữ do cha Alexandre de Rhodes,
giáo sĩ Đắc Lộ, cưu mang, đã chính thức ra đời tại nhà in Vatican.
Đó là cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA.
7
Tem tưởng niệm Alexandre de
Rhodes của Việt Nam Cộng Hòa
Những người con dân Chúa…
Năm 1961, nhân dịp cử hành 300 năm ngày qua đời của cha
Đắc Lộ, nguyệt san “MISSI”, do các cha Dòng Tên người Pháp điều
khiển, đã dành trọn số tháng 5 để tưởng niệm và ca tụng Cha Đắc Lộ,
một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ nói
chung và của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng.
Nguyệt san “MISSI” nói về công trình khai sinh chữ Quốc
Ngữ với tựa đề: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La-tinh, cha
Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ”.
Tiếp đến, tờ MISSI viết:
• Khi chính thức xác định mẫu
tự, bằng cách cho ra đời tại
Roma nơi nhà in Vatican, quyển
tự điển đầu tiên và các sách đầu
tiên bằng chữ Quốc Ngữ, Cha
Alexandre de Rhodes đã giải
phóng nước Việt Nam.
• Thật vậy, giống như Nhật
Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ viết
của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây
không lâu, người Triều Tiên mới chế biến ra một chữ viết riêng
của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, đã phải bó
tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.
• Trong khi đó, người Tàu của Mao Trạch Đông đang tìm cách
dùng các mẫu tự La-tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng
cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ
công ơn của Cha Alexandre de Rhodes Đắc Lộ, đã tiến bộ trước
người Tàu đến 3 thế kỷ!
• Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Đắc Lộ khởi xướng ra
chữ Quốc Ngữ. Trước đó, các Cha thừa sai Dòng Tên người Bồ
Đào Nha ở Macao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng
các mẫu tự La-tinh rồi. Tuy nhiên, cha Đắc Lộ là người đưa công
trình chế biến chữ Quốc Ngữ đến chỗ kết thúc vĩnh viễn và thành
công, ngay từ năm 1651, là năm cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA chào
đời. Đây cũng là năm sinh chính thức của chữ Quốc Ngữ. Và cuộc
khai sinh diễn ra tại Roma, nơi nhà in Vatican. Chính nơi nhà in
Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình.
• Đã từ lâu đời, người Việt Nam viết bằng chữ Tàu, hoặc bằng
chữ Nôm, do họ sáng chế ra. Nhưng đa số người Việt Nam không
8
Những người con dân Chúa…
thể đọc và viết được chữ Tàu, vì theo lời Cha Đắc Lộ, Tàu có đến
80 ngàn chữ viết khác nhau. Các nhà truyền giáo đầu tiên khi đến
Việt Nam, đã bắt đầu dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng
mà họ nghe được từ tiếng Việt. Khi cha Đắc Lộ đến Việt Nam, đã
có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La-tinh rồi. Vì
thế, có thể nói rằng, công trình sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ
trước tiên là một công trình chung của các nhà thừa sai tại
Việt Nam. Nhưng khi chính thức in ra công trình khảo cứu
chữ viết tiếng Việt của mình, là cùng lúc, cha Đắc Lộ đã khai
sinh ra chữ viết này, ban đầu được các nhà truyền giáo xử dụng,
sau đó, được toàn thể dân Việt-Nam dùng và biến nó thành chữ
Quốc Ngữ. Tất cả các nước thuộc miền Viễn Đông từ đó ước ao
được có chữ viết cho quốc gia mình y như chữ Quốc Ngữ này
vậy!.
Trên đây là phần trích dẫn từ nguyệt san “MISSI”. Về phần
cha Đắc Lộ, chính Cha đã viết về ngôn ngữ của một dân tộc mà Cha
rất mộ mến như sau:
“Khi tôi vừa đến Nam Kỳ và nghe người dân bản xứ nói,
đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo,
và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói
được một ngôn ngữ như thế!. Thêm vào đó, tôi thấy hai cha Emmanuel
Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có
cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng
của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha
Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả
năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt
y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp,
chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và
sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. Kết quả các bài
giảng bằng tiếng Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng phải có người
thông dịch lại”.
9
Những người con dân Chúa…
Chân Phước Anrê Phú Yên
Thầy Giảng - Vị Tử Ðạo Tiên Khởi của Giáo Hội Việt Nam
Ngày 5 tháng 3 năm thánh 2000, Ðức
Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phước
một thanh niên Việt Nam, tử đạo ngày 26 tháng 7
năm 1644, và được biết dưới tên thánh Anrê, và
đồng thời cũng là thầy giảng.
Ba thế kỷ rưỡi đã trôi qua kể từ ngày Thầy anh dũng dâng
hiến mạng sống vì trung thành với đức tin Kitô và những lời Thầy
cam kết với Chúa Kitô trong tư cách là người truyền bá Tin Mừng và
giáo lý Kitô, nhưng ký ức về Thầy vẫn không suy giảm; trái lại, tấm
gương của Thầy Anrê vẫn là một nguồn mạch nâng đỡ và khích lệ
đích thực cho các tín hữu Công Giáo tại Việt Nam, giúp đỡ họ sống
phù hợp và trung thành với đức tin, mặc dù đất nước phải trải qua
nhiều thăng trầm phức tạp và khó khăn.
Thầy Giảng Anrê, gốc tỉnh Phú Yên (giáo xứ Mằng Lăng,
Giáo phận Quy Nhơn), là con út của một phụ nữ tên thánh là Gioanna.
Tuy góa bụa nhưng bà đã giáo dục con cái với tất cả lòng tận tụy và
10
Những người con dân Chúa…
khôn ngoan. Anrê là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng tư chất rất thông
minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng chiều về sự thiện. Do lời
năn nỉ của bà mẹ, cha Ðắc Lộ, vị Linh Mục thừa sai dòng Tên nổi
tiếng, đã nhận cậu Anrê vào số các môn sinh của Ngài. Anrê chăm chỉ
học chữ Nho và chẳng bao lâu trội vượt các bạn đồng môn.
Anrê được lãnh nhận bí tích Rửa Tội cùng với mẹ ba năm
trước khi bà qua đời, tức là năm 1641, khi Anrê được 15 tuổi. Anrê
sinh năm 1625 hay 1626, không rõ ngày tháng, và lúc chịu chết năm
1644, Thầy trạc độ 19 hay 20 tuổi.
Một năm sau khi chịu phép Rửa Tội, tức là năm 1642, Anrê
được cha Ðắc Lộ nhận vào nhóm cộng sự viên thân tín của Ngài, và
sau một năm huấn luyện thêm về tôn giáo và văn hóa, Anrê được gia
nhập Hội Thầy Giảng gọi là "Nhà Ðức Chúa Trời" mà cha Ðắc Lộ đã
khôn ngoan thành lập. Các thành viên Nhà Ðức Chúa Trời cam kết,
bằng lời hứa chính thức và công khai, suốt đời phụng sự Giáo Hội
trong việc giúp các linh mục và truyền bá Tin Mừng.
Lòng hăng say của Thầy Anrê sống trọn điều quyết tâm khi
chịu phép Rửa đã chuẩn bị cho Thầy can đảm đương đầu với cuộc tử
đạo và ngoan ngoãn đón nhận ơn tử đạo Thiên Chúa rộng ban cho
Thầy.
Trước cuối tháng 7 năm 1644, quan Nghè Bộ trở lại tỉnh nơi
Thầy Giảng Anrê sinh sống. Quan mang theo sắc lệnh của chúa
Nguyễn cấm truyền bá đạo Kitô trong nước: vì thế quan quyết định
hành động trước tiên chống lại các thầy giảng.
Cha Ðắc Lộ không hề hay biết ý định này của quan, nên tới
thăm quan vì xã giao, nhưng ngay sau đó Cha được biết chúa Nguyễn
rất giận dữ khi thấy vì Cha mà có đông người dân bản xứ theo đạo
Kitô. Vì thế Cha phải bỏ xứ Ðàng Trong để trở về Macao và không
được phép dậy giáo lý cho dân nữa. Còn các tín hữu theo đạo thì bị
trừng phạt rất nặng nề.
Rời dinh quan Nghè Bộ, cha Ðắc Lộ đi thẳng xuống nhà tù
nơi giam giữ một thầy giảng già 63 tuổi tên là Anrê, mới bị bắt hai
ngày trước đó. Trong khi ấy, quan ra lệnh cho lính tới nhà Cha lùng
bắt một thầy giảng khác tên là Ignatio. Nhưng thầy Ignatio đã đi làm
việc tông đồ. Lính chỉ tìm thấy Thầy Anrê trẻ. Để khỏi trở về dinh
quan Bộ tay không, lính đánh đập Thầy Anrê, trói Thầy lại, rồi giải
xuống thuyền đem về dinh quan trấn thủ. Chiều ngày 25 tháng 7 năm
1644, Thầy đựơc dẫn tới trước mặt quan. Lính thưa với quan rằng họ
không tìm thấy thầy Ignatio, nhưng đã bắt được một "thầy giảng khác
11
Những người con dân Chúa…
giống như vậy, vì suốt cuộc hành trình, anh ta luôn nói về đạo Kitô và
khuyến khích họ theo đạo".
Nghe vậy, quan tìm mọi cách làm cho Thầy Anrê "từ bỏ cái
đạo điên rồ đó và bỏ lòng tin".
"Nhưng thanh niên can trường ấy trả lời quan rằng mình là
Kitô hữu, và rất sẵn sàng chịu mọi khổ hình chứ không từ bỏ đạo
mình tuyên xưng, nên xin quan cứ tùy ý chuẩn bị các hình cụ, chàng
vui lòng đón nhận, với xác tín rằng, vì đức tin, càng chịu khổ đau
chừng nào thì càng chết vinh quang chừng ấy".
Tức giận vì sự bất khuất của Thầy Anrê không hề sợ hãi trước
những lời đe dọa, quan truyền đóng gông và giải Thầy vào ngục, cùng
nơi giam giữ thầy Anrê già.
Cha Ðắc Lộ và một vài thương gia Bồ Ðào Nha tới thăm hai
thầy. Thầy Anrê trẻ thanh thản và vui mừng vì được chịu khổ đau vì
Chúa Kitô đến độ những người đến thăm Thầy bịn rịn không rời Thầy
được, và nước mắt tràn bờ mi, họ xin Thầy nhớ đến họ trong lời cầu
nguyện. Thấy vậy, Thầy tự nhạo cười mình và xin họ cầu nguyện cho
Thầy, để Chúa ban cho Thầy ơn trung thành với Chúa cho đến chết,
"dâng hiến mạng sống trong tình yêu trọn vẹn, hầu đáp trả tình yêu
thương vô biên của Chúa, Ðấng đã hiến mạng sống vì loài người
những lời Thày luôn lập lại cho đến khi trút hơi thở cuối cùng là:
Chúng ta hãy lấy tình yêu để đáp trả tình yêu của Chúa chúng
ta, hãy lấy mạng sống đáp trả mạng sống".
Sáng hôm sau, 26 tháng 7 năm 1644, hai tín hữu Kitô cùng
tên Anrê, Anrê già 63 tuổi và Anrê trẻ, cổ mang gông, bị dẫn qua các
đường phố đông người qua lại nhất trong thành, băng qua chợ Kẻ
Chàm, đến dinh quan trấn thủ để bị tra hỏi công khai. Quan trấn triệu
tập một vài quan khác, lôi kéo họ về phía mình và tuyên án tử cho
Thầy Giảng Anrê trẻ, rồi ra lệnh dẫn Thầy trở về ngục thất.
Còn thầy Anrê già thì được tha vì lý do tuổi tác nhờ lời xin
của cha Ðắc Lộ và các thương gia Bồ Ðào Nha.
Vào khoảng 5 giờ chiều, một viên chỉ huy cùng với 30 người
lính vào nhà tù, nơi vị Tôi Tớ Chúa bị giam giữ, và ra lệnh cho Thầy
phải đi theo tới nơi hành quyết. Thầy Anrê cảm tạ Chúa vì giờ hiến tế
đã tới, và sau khi chào mọi người hiện diện trong tù, Thầy nhanh nhẹn
bước đi. Quân lính vây chặt chung quanh và dẫn Thầy Anrê đi qua các
đường phố ở Kẻ Chàm, tới một cánh đồng ngoài thành. Cha Ðắc Lộ,
nhiều Kitô hữu Bồ Ðào Nha và Việt Nam cũng như nhiều người
lương đã đi theo và chứng kiến cuộc xử tử vị Tôi Tớ Chúa.
12
Những người con dân Chúa…
Theo thói quen tại đây, cha Ðắc Lộ xin và được phép trải một
tấm chiếu dưới người Thầy Anrê để hứng lấy máu Thầy, nhưng Thầy
Anrê không muốn nhận điều ấy, Thầy muốn máu mình thấm xuống
đất, để được giống như máu cực trọng Chúa Kitô đã đổ ra. Trong khi
đó, Thầy Anrê nhắn nhủ các Kitô hữu hiện diện hãy luôn kiên vững
trong đức tin, đừng buồn phiền vì cái chết của Thầy, và hãy giúp lời
cầu cho Thầy được trung thành tới cùng.
Cuộc hành quyết Thầy Anrê được thi hành bằng mấy nhát lao
đâm thấu cạnh sườn bên trái, và sau cùng khi một người lính sắp dùng
đao chém đầu, Thầy lớn tiếng kêu lên "GIÊSU".
Cho tới hơi thở cuối cùng, Thầy Anrê đã chứng tỏ lòng kiên
trung trong việc chấp nhận dâng hiến tế cuộc sống vì lòng tin yêu
Chúa Kitô.
(Lời Nguyện Giáo Dân Thánh Lễ Tôn Phong Chân Phước Anrê Phú Yên tại
Công Trường Thánh Phêrô, Vatican 5.3.2000)
Gió chiều phơn phớt lạnh
Lặng cả tiếng thì thầm
Rừng người đứng trầm ngâm
Nghe lý hình than thở:
"Lạy Trời, xin tha thứ
Tôi là kẻ thừa hành
Có đổ máu người lành
Xin Trời Xanh tha tội".
Than rồi, ông bước tới
Cố nén tiếng thương đau
Lấy ngọn giáo đâm thâu
Xuyên từ sau ra trước.
Thầy An-rê vẫn ngước
Nhìn trời mắt đăm đăm
Rồi quay lại chăm chăm
13
• Lạy Chúa, xin cho các giáo lý viên và các bạn trẻ, ở bất cứ
hoàn cảnh nào, dù nơi bị cấm cách, hay trong xã hội tân
tiến với nhiều quyến dũ, biết noi gương Chân Phước Thầy
Giảng Anrê Phú Yên, hăng say loan truyền Tin Mừng Tình
Yêu và Hòa Giải và trung kiên theo Chúa Giêsu, hiến mạng
sống đáp trả lại tình yêu của Ngài.
Những người con dân Chúa…
Thầy chào cha Ðắc Lộ.
Lòng cha bao đau khổ
Vẫn gắng ngỏ một lời:
"Con ơi hãy nhìn trời
Giê-su Ngài đang đợi!"
Thầy nghe lời cha nói
Vội nhìn trời bao la
"Giê-su ! Ma-ri-a!"
Lời thốt ra luôn miệng.
Người lý hình tê điếng
Rút lại ngọn giáo dài
Ðâm một nhát thứ hai
Rồi đâm thêm nhát nữa.
Thầy vẫn chưa gục ngã
Kiên vững cả xác hồn
Trên đôi môi như son
Vẫn kêu giòn danh Chúa.
Thấy cực hình lâu quá
Một người lính đứng gần
Tuốt ra lưỡi gươm trần
Nhắm chém ngay vào cổ.
Nhưng thầy vẫn quỳ đó
Danh Chúa thầy vẫn kêu.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét