Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
Người đầu tiên đã đặt vấn đề giá trị lao động là Petty, ông coi giá trị hàng
hoá là lao động khai thác bạc tạo ra, được gọi là lý thuyết giá trị của Petty là
giá trị lao động, các nhà kinh tế của trường phái trọng nông đã tiếp tục nghiên
cứu và phát triển tư tưởng kinh tế của ông.
Trên cơ sở lý luận giá trị lao động mà Petty đưa ra, các nhà kinh tế học sau
này đã xây dựng một hệ thống các phạm trù về tiền lương, lợi tức, địa tô, tiền
tệ. Tuy nhiên, giá trị lao động trong giai đoạn phát sinh của trường phái kinh
tế học tư sản cổ điển còn sơ khai, phiến diện, thiếu nhất quán vì còn chịu ảnh
hưởng tư tưởng của trường phái trọng thương, biểu hiện như sau:
Nhà kinh tế học thời này mới chỉ biết chất của giá trị do lao động tạo nên
nhưng lao động đó là lao động gì thì chưa tiếp cận đến.
Quan điểm của họ về giá trị lao động còn phiến diện mặc dù coi giá trị hàng
hoá do lao động tạo ra nhưng chỉ thừa nhận giá trị do lao động khai thác bạc
tạo nên, còn lao động trong các ngành khác không tạo ra giá trị. Trường phái
trọng nông cho rằng sản phẩm thuần tuý hay giá trị hàng hoá là do lao động
nông nghiệp tạo nên còn lao động ở các ngành khác không tạo ra giá trị của
hàng hoá.
Quan niệm giá trị còn chưa nhất quán bởi lẽ trong khi thừa nhận giá trị do lao
động tạo ra thì đồng thời các nhà kinh tế ở thời kỳ này cho rằng giá trị vừa do
lao động vừa do đất đai tạo thành, chính tư tưởng này là mầm mống của giá trị
chi phí sản xuất.
Trong khi cho rằng giá trị do lao động tạo ra nhưng các nhà kinh tế học vẫn
coi trọng lao động buôn bán, lao động làm ra vàng và bạc hơn lao động sản
xuất.
- Về tư tưởng và vai trò kinh tế của nhà nước
Nhìn chung các nhà kinh tế thời kỳ này đều ủng hộ tư tưởng kinh tế tự do mà
nổi bật trong lý thuyết về quyền tự nhiên.
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
5
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
2.2.2. Giai đoạn phát triển của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển
Giai đoạn này Adam Smith và Ricardo là nhà kinh tế tiêu biểu, người đầu
tiên đã tạo ra sự phát triển của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển.
Đặc điểm chung của giai đoạn này là các nhà kinh tế đã phát triển một cách
toàn diện các vấn đề lý luận kinh tế của trường phái cổ điển, đặc biệt là lý
thuyết về giá trị lao động được xây dựng một cách hoàn thiện hơn cả về chất
và lượng, về cơ cấu, giá trị của hàng hoá.
Nếu như Petty và những người trọng nông còn thể hiện phiến diện trong lý
thuyết giá trị lao động thì Adam Smith đã đưa lý thuyết này đến một sự phát
triển mới, được thể hiện ở chỗ: ông quan niệm lao động trong mọi ngành sản
xuất đều tạo ra giá trị, không kể đó là lao động trong công nghiệp hay nông
nghiệp. Đến Ricardo lại phát triển cao hơn một tầm so với Adam Smith, ông
khẳng định về chất của giá trị hàng hoá, ông cho rằng: giá trị hàng hoá do lao
động tạo ra, thực thể giá trị là lao động.
Về lượng giá trị hàng hoá của hàng hoá cũng được các nhà kinh tế học
thời này phân tích kỹ hơn. Họ cho rằng lượng giá trị của hàng hoá là do thời
gian lao động xã hội cần thiết quyết định và họ quan niệm nếu thời gian lao
động xã hội cần thiết bỏ vào nhiều giá trị hàng hoá thì lượng giá trị hàng hoá
càng lớn.
Tuy nhiên kinh tế chính trị học tư sản cổ điển trong giai đoạn này vẫn còn
hạn chế, trong lý thuyết về giá trị vẫn không thống nhất về quan niệm giá trị,
thể hiện ở chỗ: một mặt cho rằng giá trị do lao động tạo nên, mặt khác Adam
Smith coi giá trị do các nguồn tự nhiên tạo nên hay Ricardo thì cho rằng tính
khan hiếm quyết định giá trị. Trong cơ cấu giá trị Adam Smith đã bỏ qua yếu
tố vật chất, còn Ricardo thì bỏ qua yếu tố nguyên vật liệu.
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
6
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
2.2.3. Giai đoạn hậu cổ điển
Giai đoạn này bắt đầu từ những năm 30 của thế kỉ XIX, ở giai đoạn này
kinh tế chính trị học tư sản cổ điển bắt đầu suy đồi
Đặc điểm của các học thuyết kinh tế giai đoạn này:
Các nhà kinh tế tiếp tục như Adam Smith, Ricardo đã bắt đầu xa rời phương
pháp luận của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển, làm cơ sở cho các nhà kinh
tế sau này xa rời những phương pháp của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển.
Không phát triển quan điểm kinh tế của trường phái cổ điển, đặc biệt là
nguyên lý giá trị lao động nhưng các nhà kinh tế không ủng hộ mà chuyển
sang lý thuyết giá trị các yếu tố sản xuất, giá trị lợi ích, điều này được thể hiện
các nhà kinh tế ở giai đoạn này còn tạo nền móng cho sự phát triển của học
thuyết cổ điển mới.
Các nhà kinh tế thời kỳ này thể hiện tính chất biện hộ cho sự tồn tại của
chủ nghĩa tư bản, coi chủ nghĩa tư bản như một thực thể xã hội tồn tại vĩnh
viễn nên việc giải quyết mâu thuẫn vốn có của nó bị các nhà kinh tế học hậu
cổ điển cố gắng giới hạn trong khuôn khổ của xã hội tư bản.
Những đặc điểm kinh tế hậu cổ điển có cơ sở tư tưởng kinh tế và xã hội của
nó. Về mặt tư tưởng thì học thuyết kinh tế hậu cổ điển bắt nguồn từ phương
pháp luận có tính hai mặt của các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển: một
mặt là khoa học, một mặt là tầm thường và siêu hình.
2.2. Các học thuyết kinh tế của thời kỳ phát triển kinh tế chính trị tư sản cổ
điển
2.2.1. Học thuyết kinh tế của Petty
- Lý thuyết về giá trị - lao động
Ông chia giá cả thành 2 loại: giá cả chính trị và giá cả tự nhiên. Theo ông,
giá cả chính trị (giá cả thị trường) phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên do
đó khó xác định, còn giá cả tự nhiên (giá trị) là do thời gian lao động hao phí
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
7
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
quyết định và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức hao phí đó. Ông kết
luận: số lượng lao động bằng nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so sánh giá trị
hàng hoá. Giá cả tự nhiên (giá trị) tỉ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác
vàng và bạc. Tuy nhiên, lý thuyết giá trị của ông vẫn còn ảnh hưởng tư tưởng
trọng thương. Mặt khác, ông có một luận điểm nổi tiếng “lao động là cha còn
đất là mẹ của mọi của cải”. Về phương diện của cải vật chất thì đó là công lao
to lớn của Petty nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị lao động khi kết luận lao
động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm tức là giá cả lao
động và đất đai là nguồn gốc của giá trị. Chính vấn đề đó là mầm mống của lý
thuyết các nhân tố tạo ra giá trị sau này.
- Lý thuyết tiền tệ
Ông là người đầu tiên đưa ra qui luật lưu thông tiền tệ mà nội dung của
nó là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định trên cơ sở số lượng
hàng hoá và tốc độ chu chuyển của tiền tệ, ông chỉ ra ảnh hưởng của thời gian
thanh toán với số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông.
- Lý thuyết tiền lương
Ông xác định tiền lương là khoản giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết tối
thiểu cho công nhân. Tiền lương không thể vượt quá những tư liệu sinh hoạt
cần thiết tối thiểu. Nếu tiền lương nhiều thì công nhân không muốn làm việc
hay nói cách khác, muốn cho công nhân làm việc thì biện pháp là hạ thấp tiền
lương xuống mức tối thiểu.
- Lý thuyết địa tô, lợi tức, giá cả ruộng đất
Về địa tô: ông định nghĩa địa tô là số chênh lệch giữa giá trị của sản
phẩm và chi phí sản xuất.
Về lợi tức: ông coi lợi tức là địa tô của tiền và cho rằng nó lệ thuộc vào
mức địa tô (trên đất mà người ta có thể dùng tiền vay để mua0
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
8
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
Về giá cả ruộng đất: công lao to lớn của ông là ông đã dùng lý luận giá trị
lao động để giải thích giá cả ruộng đất.
2.2.2. Học thuyết kinh tế của Adam Smith
- Lý luận về phân công lao động
Ông cho rằng cội nguồn của của cải lao động, tài sản của xã hội phụ
thuộc vào hai nhân tố, đó là tỷ lệ làm việc trong nền sản xuất vật chất và trình
độ phát triển của phân công. Tuy nhiên ông chưa phân biệt được phân công
của công trường thủ công với phân công xã hội, chưa chú ý đến mặt xã hội
của sự phân công.
- Lý thuyết về tiền tệ
Ông cho rằng tiền chỉ là phương tiện kỹ thuật làm cho trao đổi được
thuận tiện. Như vậy ông đánh giá không đúng về tiền tệ, coi tiền chỉ là môi
giới giản đơn.
Ông đã hiểu được tiền là một thứ hàng hoá tách ra tức là hiểu được bản
chất hàng hoá của tiền và cũng chỉ hiểu đến đó thôi.
- Lý thuyết về tiền công
Adam Smith cho rằng tiền công chịu sự tác động của nhân khẩu và qui
mô của tư bản quyết định tiền công. Ông đã phân biệt một cách có lý tiền công
danh nghĩa và tiền công thực tế.
Ông còn có những hạn chế và sai lầm về lý luận tiền công như coi tiền
công là giá cả của lao động, là một phạm trù đặc trưng cho tất cả các giai đoạn
phát triển kinh tế
- Lý thuyết về lợi nhuận
Khác với chủ nghĩa trọng nông, ông cho rằng không chỉ có lao động nông
nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên ông còn
có những hạn chế về lý luận lợi nhuận như: không thấy được sự khác nhau
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
9
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận, và cho rằng lợi nhuận là do toàn bộ tư bản
đẻ ra.
- Lý luận về địa tô
Ông đã phân biệt được địa tô với lợi tức do tư bản đầu tư vào đất đai.
Theo ông thì địa tô là hình thái của giá trị thặng dư. Ông đã phân biệt được địa
tô chênh lệch nhưng lại không đi sâu nghiên cứu về nó.
- Lý luận về tư bản
Tư bản lưu động là tư bản mang lại thu nhập cho người chủ của nó do kết
quả của việc thực hiện, tiêu thụ hàng hoá. Tư bản thương nhân thuộc về tư bản
lưu động. Tư bản cố định là tư bản đem lại lợi nhuận.
- Lý luận về tái sản xuất
Ông nhận thấy cần phân biệt hai hình thức lao động: một thứ cung cấp
những vật phẩm tiêu dùng, một thứ cung cấp những sản phẩm không phải để
tiêu dùng. Như vậy, ông đã có bước tiến so với những người trước ông.
2.2.3. Học thuyết kinh tế của David Ricardo
- Lý luận về giá trị
Ông định nghĩa giá trị hàng hoá như sau: “giá trị của hàng hoá hay số
lượng của một hàng hoá nào khác mà hàng hoá đó trao đổi, là do số lượng lao
động tương đối, cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định, chứ không
phải do khoản thưởng lớn hay nhỏ trả cho lao động quyết định”
David Ricardo đã phân biệt được hai thuộc tính của hàng hoá: giá trị sử dụng
và giá trị trao đổi.
Ông cho rằng hàng hoá hữu ích sở dĩ có giá trị trao đổi là do hai nguyên nhân;
tính chất khan hiếm và lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng.
Ông là người đầu tiên phân biệt được lao động cá biệt và lao động xã hội.
Ông đã chứng minh một cách tài tình rằng giá trị hàng hoá giảm khi năng suất
lao động tăng lên.
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
10
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
Khác với Adam Smith, ông cho rằng qui luật giá trị vẫn hoạt động trong
CNTB nhưng hoạt động như thế nào ông không chứng minh được vì ông
không thể giải quyết được vấn đề giá cả sản xuất.
- Lý luận về thu nhập: tiền lương, lợi nhuận và địa tô
D.Ricardo cho rằng giá trị được tạo ra gồm có 2 phần: tiền lương và lợi
nhuận
Một trong những công lao to lớn của ông là đã phân tích được tiền công thực
tế và xác định nó như là một phạm trù kinh tế. Ông nhấn mạnh rằng lượng
hàng hoá người công nhân mua được bằng tiền công, chưa quyết định địa vị
xã hội của người đó, sự quyết định tình cảm của công nhân phụ thuộc vào mối
tương quan giữa tiền lương và lợi nhuận.
D.Ricardo xem lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công.
Lý luận về địa tô của ông là một sự kiện lớn trong lịch sử kinh tế chính trị.
Tuy nhiên cái sai của ông là do ông đã gắn lý luận địa tô với qui luật ruộng đất
sinh lợi ngày càng giảm.
- Lý luận về tiền tệ
Ông là người rất sành về tiền tệ. Ông khẳng định: với giá trị nhất định của
tiền, số lượng tiền trong lưu thông phụ thuộc vào tổng giá cả hàng hoá. Tuy
nhiên, ông không nhất quán giữ vững quan điểm của mình, ông nói rằng với
bất cứ số lượng tiền giấy, tiền vàng nào cũng có thể tham gia vào quá trình lưu
thông.
- Lý luận về tư bản
Ông đã phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Ông
coi bộ phận tư bản đài thọ cho lao động là tư bản lao động, coi bộ phận tư bản
ứng trước mua công cụ, tồn tại vĩnh viễn, hao mòn dần là tư bản cố định.
- Lý luận về tái sản xuất
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
11
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
D.Ricardo không hiểu được sự phân chia C, V nên đã sai lầm giống như
A.Smith đã bỏ qua C, không thể hiểu được ảnh hưởng C/V của tư bản.
Ông cũng không phát triển được lý luận tái sản xuất, tuy nhiên ông cũng đã
nhận ra được một số luận điểm đúng như xem tiêu dùng là do sản xuất quyết
định và muốn mở rộng sản xuất thì phải tích luỹ, phải làm cho sản xuất vượt
quá tiêu dùng, sản xuất tạo ra thị trường.
- Lý thuyết lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế
Lý thuyết lợi thế so sánh khẳng định rằng, nếu một đất nước có lợi thế so
sánh trong một số sản phẩm và kém lợi thế so sánh trong một số sản phẩm
khác thì nước đó sẽ có lợi trong chuyên môn hoá và phát triển thương mại
quốc tế. Thương mại quốc tế chủ yếu phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không
phải chỉ phụ thuộc vào lợi thế tuyệt đối.
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
12
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
PHẦN III: Vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.1. Quan tâm đến vấn đề sản xuất
Theo quan niệm phổ biến trên thế giới thì sản xuất được hiểu là quá trình
tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
Ở nước ta lâu nay có một số người thường cho rằng chỉ có những doanh
nghiệp chế tạo, sản xuất các sản phẩm vật chất có hình thái cụ thể như xi
măng, tủ lạnh, mới gọi là các đơn vị sản xuất. Những đơn vị khác không sản
xuất các sản phẩm vật chất đều xếp vào loại các đơn vị phi sản xuất. Ngày nay
trong nền kinh tế thị trường, quan niệm như vậy không còn phù hợp nữa.
Một hệ thống sản xuất sử dụng các yếu tố đầu vào là nguyên vật liệu thô, con
người, máy móc, nhà xưởng, kỹ thuật công nghệ, tiền mặt và các nguồn tài
nguyên khác để chuyển đổi nó thành sản phẩm hoặc dịch vụ. Sự chuyển đổi
này là hoạt động trọng tâm và phổ biến của hệ thống sản xuất. Mối quan tâm
hàng đầu của các nhà quản trị hệ thống sản xuất, là các hoạt động chuyển hóa
của sản xuất
Theo nghĩa rộng, sản xuất bao hàm bất kỳ hoạt động nào nhằm thỏa mãn nhu
cầu của con người. Nó có thể phân thành: sản xuất bậc 1; sản xuất bậc 2 và
sản xuất bậc 3.
- Sản xuất bậc 1 (sản xuất sơ chế): là hình thức sản xuất dựa vào khai thác tài
nguyên thiên nhiên hoặc là những hoạt động sử dụng các nguồn tài nguyên có
sẵn, còn ở dạng tự nhiên như khai thác quặng mỏ, khai thác lâm sản, đánh bắt
hải sản, trồng trọt,
- Sản xuất bậc 2 (công nghiệp chế biến): là hình thức sản xuất, chế tạo, chế
biến các loại nguyên liệu thô hay tài nguyên thiên nhiên biến thành hàng hóa
như gỗ chế biến thành bàn ghế, quặng mỏ biến thành sắt thép. Sản xuất bậc 2
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
13
Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
bao gồm cả việc chế tạo các bộ phận cấu thành được dùng để lắp ráp thành sản
phẩm tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp.
- Sản xuất bậc 3 (công nghiệp dịch vụ): Cung cấp hệ thống các dịch vụ nhằm
thỏa mãn nhu cầu đa dạng của con người. Trong nền sản xuất bậc 3, dịch vụ
được sản xuất ra nhiều hơn các hàng hóa hữu hình. Các nhà sản xuất công
nghiệp được cung cấp những điều kiện thuận lợi và dịch vụ trong phạm vi
rộng lớn. Các công ty vận tải chuyên chở sản phẩm của các nhà sản xuất từ
nhà máy đến các nhà bán lẻ. Các nhà bán buôn và nhà bán lẻ cung cấp các
dịch vụ đến người tiêu dùng cuối cùng. Ngoài ra còn nhiều loại dịch vụ khác
như: bốc dỡ hàng hóa, bưu điện, viễn thông, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, y
tế, giáo dục, nhà hàng, khách sạn,
3.2. Vận dụng các qui luật kinh tế thị trường
Như chúng ta đã biết, trước đổi mới, Đảng ta đã áp dụng cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Trong cơ chế này, sở hữu tư nhân và
cá nhân bị coi nhẹ, nặng về mục tiêu phát triển QHSX, xây dựng nền kinh tế
hầu như khép kín, không coi trọng đúng mức vai trò của kinh tế hàng hoá. Mô
hình này làm thui chột các động lực tăng trưởng, nền kinh tế của nước ta lâm
vào khủng khoảng trầm trọng. Từ thực tế trên, tại đại hội Đảng lần thứ VI,
Đảng đã tiến hành đổi mới tư duy, khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan
hệ hàng hóa - tiền tệ trong CNXH. Đại hội VII và VIII Đảng đã khẳng định cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Đại hội
IX xác định rõ thêm "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mô hình kinh tế tổng quát" trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đại
hội X tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Như
vậy sự ra đời của kinh tế thị trường là một bước phát triển trong thực tiễn cũng
như lý luận dựa trên một cơ sở khoa học của Đảng.
Học viên: Trần Thị Thu Huyền Lớp: CH 10.02
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét