3.3.2. Các sản phẩm tín dụng khác nhau thể hiện các rủi ro khác nhau
****** cung cấp nhiều hình thức tín dụng, như cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ, cho
vay hợp vốn, tài trợ dự án, bảo lãnh và tín dụng thư cho tài trợ thương mại. Các loại hình tín
dụng khác nhau này chứa đựng mức độ rủi ro khác nhau.
Loại hình tín dụng cần phải phù hợp không chỉ với nhu cầu tín dụng mà còn với mức độ tin
cậy về khả năng trả nợ của người vay. Điều này ngày càng trở nên có ý nghĩa quan trọng khi
****** tiếp tục mở rộng hoạt động của mình. Rủi ro gắn liền với từng loại hình tín dụng cần
phải được hiểu rõ ở mức độ của từng khách hàng vay. Chỉ những khách hàng có mức độ tin
cậy về khả năng trả nợ cao nhất mới đủ điều kiện để được cấp các loại hình tín dụng có độ rủi
ro cao.
3.3.3. Rủi ro thanh toán gắn với các công cụ tài chính khác nhau
Rủi ro tín dụng cũng phát sinh đối với các loại công cụ tài chính không phải là các khoản cho
vay, chẳng hạn như các giao dịch ngoại hối và các giao dịch liên Ngân hàng. Rủi ro của khách
quan không trả được nợ vào lúc đáo hạn của một hợp đồng hạch toán ngoài bảng cân đối kế
toán được hiểu là rủi ro thanh toán. Rủi ro này phát sinh vào thời điểm các khoản thanh toán
bằng các loại tiền tệ khác nhau cần phải được trao đổi giữa các bên của hợp đồng. Đó là rủi ro
mà bên đối tác không thanh toán cho ngân hàng sau khi Ngân hàng đã thực hiện thanh toán
cho bên đối tác.
Với sự khác nhau về múi giờ và giờ làm việc, rủi ro thanh toán thường chỉ tồn tại trong vài
giờ – chênh lệch thời gian giữa các khoản trả đi và thu về tương ứng. Tuy nhiên, độ lớn của
khoản tổn thất lại có thể là rất lớn. Trong những tình huống đặc biệt, toàn bộ giá trị thanh toán
có thể bị mất trắng. Thường thì sự thất bại trong việc hoàn trả của phía đối tác chỉ có tính chất
tạm thời. Trong những trường hợp như thế, Ngân hàng đã thực hiện, một cách không có chủ
ý, một khoản cho vay ngắn hạn đối với phía đối tác. Mức độ rủi ro được quyết định bởi những
dàn xếp cho việc thanh toán, chẳng hạn thời hạn trao đổi, quyết toán thanh toán và vai trò của
trung gian thanh toán và đơn vị thanh toán bù trừ.
3.3.4. Khả năng cấp tín dụng và chuyên môn của cán bộ tín dụng
Rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế
rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời hạn vay. Năng lực cấp tín
dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và các nguồn lực của Ngân hàng (về
nhân sự cũng như về cơ sở vật chất). Các nguồn lực này liên quan đến khả năng của hệ thống
công nghệ thông tin của Ngân hàng trong việc kiểm soát toàn bộ danh mục, phân tích và báo
cáo rủi ro một cách kịp thời, cũng như khả năng của nguồn nhân lực trong việc xử lý các
nghiệp vụ qua các công đoạn của qui trình tín dụng một cách kịp thời và hiệu quả.
****** chỉ nên tiến hành các hình thức cho vay có rủi ro cao hơn khi Ngân hàng đã sẵn sàng
cho việc tiếp nhận các rủi ro đó và có đủ kỹ năng, trình độ, hệ thống và nhân sự để cung cấp,
quản lý và giám sát những khoản tín dụng này. Một khung pháp lý có tính hỗ trợ sẽ có lợi cho
người sử dụng những sản phẩm ‘có rủi ro cao hơn’ và tạo điều kiện cho việc thu hồi trong
trường hợp xảy ra vi phạm hợp đồng.
3.3.5. Mức độ tập trung của danh mục tín dụng
Mức độ tập trung trong danh mục tín dụng theo các đặc thù riêng trực tiếp ảnh hưởng đến rủi
ro của danh mục tín dụng. Các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến các khoản cho vay có một đặc
5
điểm nào đó trong danh mục tín dụng có khả năng gây nên thất thoát trầm trọng hơn nếu
Ngân hàng có mức độ tập trung cao vào các khoản cho vay có cùng các đặc điểm này.
****** có thể hạn chế rủi ro do tập trung trong danh mục tín dụng bằng cách thường xuyên
đánh giá rủi ro trong từng thị trường, trong từng ngành kinh tế, từng khu vực địa lý, sản phẩm
và hình thức thế chấp, loại tiền tệ và hình thức đáo hạn, từ đó đảm bảo duy trì một danh mục
tín dụng đa dạng hoá.
3.4. Xây dựng và thực hiện các chính sách tín dụng đã được vạch
rõ
Một điều tối quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng là việc thiết kế và thực hiện các chính
sách và quy trình bằng văn bản liên quan đến việc phát hiện, đánh giá, giám sát và kiểm soát
rủi ro tín dụng. Các chính sách tín dụng cần phải được lập một cách rõ ràng, thống nhất với
các thông lệ thận trọng trong kinh doanh ngân hàng và với các quy định của Nhà nước, đồng
thời phải phù hợp với bản chất và mức độ phức tạp của các hoạt động của ******. Các chính
sách và quy trình được xây dựng và thực hiện hợp lý sẽ cho phép Ngân hàng đạt được những
mục tiêu sau:
9. Duy trì các chuẩn mực cấp tín dụng an toàn.
10. Giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng.
11. Đánh giá đúng những cơ hội kinh doanh mới.
12. Phát hiện và quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Các văn bản nghiệp vụ tín dụng của ****** sẽ được sử dụng như một công cụ hướng dẫn căn
bản cho các chính sách và quy trình liên quan đến bộ phận tín dụng đã được Hội đồng Quản
trị phê duyệt. Mục đích của Cẩm nang Quản lý Rủi ro này không nhằm tái tạo lại những
hướng dẫn chi tiết cho các cán bộ tín dụng để tiến hành cấp tín dụng và quản lý các khoản
vay. Các chính sách và quy trình mô tả dưới đây nêu bật những nhân tố từ quy trình tín dụng
của ngân hàng có liên quan mật thiết đến việc quản lý rủi ro tín dụng:
6
3.4.1. Các tiêu chuẩn cấp tín dụng – thông tin, hồ sơ và các quy trình để
tìm hiểu khách hàng, phân tích và đánh giá tín dụng ban đầu
Việc tạo lập các tiêu chuẩn cấp tín dụng rõ ràng là rất thiết yếu để có thể phê duyệt các khoản
cho vay một cách an toàn và thận trọng. Những tiêu chuẩn này cần bao gồm yêu cầu về sự
thông hiểu thấu đáo khách hàng vay cũng như mục đích và cấu trúc của khoản tín dụng và
nguồn trả nợ.
Tập hợp thông tin về khách hàng xin vay
Ngân hàng cần hiểu rõ về đối tượng mà mình sẽ cấp tín dụng. Trước khi tham dự vào bất cứ
một mối quan hệ tín dụng mới nào, Ngân hàng cũng cần phải thông hiểu người đi vay và tin
tưởng rằng mình đang quan hệ với một cá nhân/ tổ chức có uy tín và đáng tin cậy về trả năng
trả nợ. Ngân hàng không nên cấp tín dụng đơn thuần chỉ vì Ngân hàng đã quen thuộc với
người đi vay hoặc người đi vay được xem là có uy tín.
Khi một khách hàng tín dụng tiềm năng được xác định, cán bộ tín dụng thực hiện những bước
đầu tiên của quá trình ra quyết định bằng cách thu thập thông tin về khách hàng tín dụng tiềm
năng để quyết định xem đề nghị vay có phù hợp với chính sách tín dụng hay không. Ngân
hàng phải nhận được đầy đủ thông tin để có thể có được một sự đánh giá toàn diện về đặc tính
rủi ro thực tế của người đi vay. Tối thiểu, những nhân tố sau đây cần phải được xét đến và ghi
thành văn bản trong quá trình phê duyệt tín dụng:
a) Giá trị, thời hạn và mục đích của khoản tín dụng và nguồn trả nợ;
b) Tính chính trực và uy tín của khách hàng vay;
c) Đặc tính rủi ro hiện tại của khách hàng vay và sự nhạy cảm với những biến chuyển trong
nền kinh tế và trên thị trường;
d) Lịch sử hoàn trả nợ vay của khách hàng vay và khả năng hoàn trả hiện tại, dựa trên xu
hướng tài chính quá khứ và dự báo lưu chuyển tiền tệ;
e) Phân tích tương lai về khả năng hoàn trả nợ vay theo các tình huống khác nhau;
f) Năng lực pháp lý của người vay để thực hiện các nghĩa vụ tài chính;
g) Đối với những khoản tín dụng thương mại, xem xét các ưu việt trong kinh doanh của
khách hàng xin vay và thực trạng ngành nghề của họ, cũng như vị thế hiện tại của họ
trong ngành nghề đó;
h) Các điều khoản đề nghị của khoản tín dụng, bao gồm cả các điều khoản ràng buộc tín
dụng được tạo lập để hạn chế các thay đổi về các rủi ro trong tương lai của người đi vay;
và
i) (xem xét nếu phù hợp), tính đầy đủ và khả năng thực thi trước pháp luật của các khoản
thế chấp, bảo lãnh trong từng tình huống khác nhau.
Những tài liệu cụ thể mà cán bộ tín dụng cần thu thập để thực hiện những yêu cầu trên được
tổng hợp dưới hình thức một danh mục kiểm tra (xem Phụ lục 4).
7
Các thông tin trên có thể hỗ trợ cán bộ tín dụng trong việc xem xét liệu những điều khoản
dưới đây của Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 có được tuân
thủ hay không:
13. Điều 9 – không được cấp tín dụng cho người sử dụng vốn vay cho các mục đích bất hợp
pháp.
14. Điều 19 – những cá nhân hoặc đơn vị mà ngân hàng không được phép cho vay (như thành
viên Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc và gia đình của họ).
15. Điều 20 – những cá nhân hoặc đơn vị mà ngân hàng chỉ có thể cho vay theo những điều
khoản nhất định (chẳng hạn như kế toán trưởng và kiểm toán viên).
Việc ngân hàng đảm bảo các thông tin nhận được có đầy đủ để ra các quyết định cấp tín dụng
hay không là rất thiết yếu. Các thông tin này đồng thời là cơ sở để xếp hạng khoản tín dụng
theo Hệ thống Chấm điểm Rủi ro Tín dụng của Ngân hàng. Hệ thống này được thảo luận kỹ ở
phần 3.8 là một công cụ định lượng cho việc đánh giá rủi ro của các hồ sơ xin vay.
Quan sát thực địa các khách hàng tiềm năng
Một bước quan trọng trong việc tạo lập khoản tín dụng là các chuyến thăm các khách hàng
tiềm năng. Thông qua việc tham quan văn phòng và thực địa nhà máy, các cán bộ tín dụng có
thể thu thập được những thông tin đầy đủ hơn để đánh giá đúng đắn khả năng quản lý. Các
cuộc đi thăm cũng đồng thời hỗ trợ cho việc hiểu rõ về tình hình kinh doanh hiện tại của đơn
vị vay, tiềm năng tương lai và nhu cầu tài chính. Các thông tin thu được từ các chuyến thăm
khách hàng cần được ghi lại trong một bản báo cáo theo mẫu chuẩn.
Phân tích nguồn trả nợ
Khi cán bộ tín dụng đã có hiểu biết về bản chất của đề nghị vay vốn, họ cần tiến hành phân
tích nguồn trả nợ. Để xác định khả năng trả nợ, cán bộ tín dụng cần phải kiểm tra những điểm
mạnh và điểm yếu của khách hàng và đánh giá yêu cầu xin vay qua việc xem xét các báo cáo
tài chính, lưu chuyển tiền tệ của khách hàng vay cũng như chiến lược kinh doanh, thị trường,
kỹ năng quản lý thông tin và kinh nghiệm của ban lãnh đạo đơn vị xin vay.
Việc phân tích nguồn trả nợ vay sẽ khác nhau phụ thuộc vào loại hình tín dụng. Các trọng tâm
phân tích sẽ rất khác nhau giữa hình thức vay ngắn hạn và dài hạn. Đối với các khoản vay dài
hạn, khả năng sinh lợi dài hạn của đơn vị vay quan trọng hơn, bởi vì tiền thu được từ hoạt
động đầu tư thường là nguồn để trả nợ vay. Đối với các khoản vay ngắn hạn, các phân tích chi
tiết về chu kỳ kinh doanh, hay chu kỳ tài sản – hàng tồn kho chuyển thành khoản phải thu và
sau đó chuyển thành tiền – là cần thiết để xác định khả năng những hạng mục cụ thể trong
bảng tổng kết tài sản có thể chuyển hoá thành tiền để hoàn trả nợ vay.
8
Phân tích tín dụng chi tiết
Sau khi đã được đánh giá sơ bộ ban đầu thông qua Hệ thống tính điểm rủi ro tín dụng, khách
hàng vay sẽ được phân tích một cách chi tiết hơn bởi cán bộ tín dụng dựa trên các yếu tố định
tính. Việc phân tích tín dụng chi tiết này bao gồm xem xét chi tiết về các yếu tố sau:
1. Phân tích rủi ro kinh doanh
2. Tìm hiểu mục đích đi vay
3. Tìm hiểu chu kỳ chuyển đổi của tài sản
Trình tự phân tích tín dụng chi tiết cho một khách hàng là doanh nghiệp được trình bày trong
Phụ lục 5.
Cấu trúc của khoản tín dụng
Cán bộ tín dụng cần phải xác định các điều khoản vay mà Ngân hàng yêu cầu, như: lãi suất,
thế chấp, bảo lãnh và các ràng buộc của hợp đồng vay tương xứng với rủi ro của khoản tín
dụng. Cấu trúc của khoản vay cần được kết nối trực tiếp đến nguồn trả nợ và thời hạn trả nợ
dự tính.
Theo Điều 10 của Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001, thời hạn
của các khoản cho vay các pháp nhân Việt Nam và pháp nhân nước ngoài đều không được
vượt quá thời hạn hoạt động còn lại theo Quyết định Thành lập, Điều lệ Công ty và Giấy phép
Đầu tư của đơn vị vay.
Các khoản cho vay hợp vốn
Ngân hàng có thể tham gia vào các khoản cho vay hợp vốn. Dù tham gia với tư cách là thành
viên hay Ngân hàng đầu mối thì Ngân hàng cũng đều cần thực hiện phân tích rủi ro tín dụng
một cách độc lập như đã mô tả trên đây và kiểm tra những điều khoản cho vay hợp vốn trước
khi tham gia. Một số thể chế tài chính đặt sự tin cậy quá mức đối với ngân hàng đầu mối của
khoản vay hợp vốn hoặc đối với các xếp hạng tín dụng. Mỗi Ngân hàng trong tổ hợp cho vay
cần phân tích rủi ro và lợi nhuận của khoản cho vay hợp vốn với quy trình như các khoản cho
vay khác.
Định giá tín dụng
Một khoản vay cần được định giá (xác định lãi suất) sao cho tổng doanh thu có được từ khoản
vay ít nhất phải bằng toàn bộ chi phí cho khoản vay cộng với một khoản phí để bù đắp rủi ro.
Bảng sau đây minh họa về một mô hình cơ bản có thể được sử dụng như một cơ sở cho việc
định giá tín dụng dựa trên mức độ rủi ro:
9
A. Chi phí nguồn vốn Chi phí nguồn vốn là một nhân tố rất quan trọng trong việc định
giá một khoản vay và thường được phê duyệt bởi ALCO. Chi phí
nguồn vốn có thể được xác định dựa trên một trong các phương
pháp:
1) Phương pháp một nguồn vốn (the single pool of funds); hoặc
2) Phương pháp đa nguồn vốn (the multiple pool of fund); hoặc
3) Phương pháp đối ứng đáo hạn (the matched maturity method).
Như được thảo luận chi tiết hơn trong phần 6.4, phương pháp đơn
giản nhất là phuơng pháp một nguồn vốn, trong đó sử dụng chi phí
cận biên cùng giả định nguồn vốn là từ các khoản tiền gửi có kỳ
hạn, đây là giả thiết thận trọng nhất cho nguồn vốn.
B. Các chi phí trực tiếp liên
quan đến việc cung cấp và
duy trì khoản cho vay
Các chi phí trực tiếp là những chi phí liên quan trực tiếp đến việc
thẩm định, phê duyệt, hạch toán, và quản lý hồ sơ khoản cho vay.
Chi phí này về cơ bản bao gồm tiền lương và phụ cấp liên quan
của các nhân viên thuộc bộ phận tín dụng tại sở giao dịch và các
chi nhánh. Những chi phí trực tiếp này được tính theo tỷ lệ phần
trăm trên tổng các khoản cho vay cấp cho khách hàng, từ đó có thể
ước tính tỷ lệ phần trăm của các chi phí trực tiếp này trong mức lãi
suất.
C. Các chi phí quản lý chung
liên quan đến hoạt động tín
dụng
Các chi phí quản lý chung bao gồm các chi phí hỗ trợ khác liên
quan đến hoạt động tín dụng như chi phí xử lý dữ liệu, chi phí hoạt
động của chi nhánh và các chi phí quản lý tín dụng của Trung
ương.
D. Phí bù đắp rủi ro Phí bù đắp rủi ro thể hiện rủi ro tín dụng và là một ước tính chủ
quan về rủi ro liên quan đến khách hàng vay. Việc xác định/ước
tính phí bù đắp rủi ro cần dựa trên mức rủi ro của khách hàng vay
đã được xác định bởi Hệ thống tính điểm rủi ro tín dụng, cùng với
phân tích bổ sung của các cán bộ tín dụng trong suốt quá trình
thẩm định tín dụng.
A+B+C+D = “Mức lãi suất cơ bản” (Prime Rate)
E. Mục tiêu sinh lời của
Ngân hàng hay mục tiêu về
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
(ROE) hoặc Vòng quay tỷ
suất lợi nhuận trên tổng tài
sản (ROA)
Đây là mức sinh lời mà các cổ đông của Ngân hàng mong muốn.
Trong quá trình thiết lập mức lãi suất, Ngân hàng cần phải cân
nhắc đến chi phí thuế của Ngân hàng. Phần phí bổ sung ở công
đoạn này phản ánh lợi nhuận gia tăng cần thiết để đạt được mục
tiêu về doanh thu và lợi nhuận của Ngân hàng.
Mức lãi suất cơ bản + E = Tổng lãi suất áp dụng cho khoản cho vay
10
3.4.2. Phê duyệt Cho vay – các cấp phê duyệt tín dụng
Việc xác định các cấp phê duyệt tín dụng một cách rõ ràng và hợp lý sẽ đảm bảo cho các
quyết định tín dụng thận trọng. Cấp phê duyệt tín dụng cần được ghi rõ thành văn bản và bao
gồm tối thiểu những mục sau:
16. Cấp phê duyệt tín dụng theo giá trị tuyệt đối và giá trị tăng dần;
17. Cấp phê duyệt dự phòng và xoá sổ khoản cho vay;
18. Cán bộ tín dụng và các vị trí hay uỷ ban được cấp quyền phê duyệt;
19. Khả năng người được uỷ quyền tiếp tục uỷ quyền phê duyệt về rủi ro và xoá sổ khoản cho
vay; và
20. Các hạn chế, nếu có, áp dụng đối với việc sử dụng các cấp phê duyệt.
****** sử dụng quá trình phê duyệt tín dụng theo chiều dọc. Quá trình này liên quan đến hệ
thống phê duyệt của từng cán bộ tín dụng với cấp độ phê duyệt tín dụng tăng dần. Hồ sơ xin
vay được chuyển dần lên các cấp cao hơn cho đến một cấp độ nhất định để thoả mãn các yêu
cầu của chính sách tín dụng. Hội đồng Tín dụng chỉ tập trung xem xét những giao dịch lớn,
rủi ro cao, nhạy cảm hoặc các giao dịch khác nằm ngoài phạm vi hoạt động tín dụng thông
thường của Ngân hàng, phù hợp với kinh nghiệm của các thành viên.
Ban giám đốc Ngân hàng đã ra Quyết định số 408/QĐ-NHNT ngày 29 tháng 3 năm 2002,
quyết định những vấn đề sau:
21. Giám đốc chi nhánh có thể phê duyệt các khoản vay của khách hàng, các khoản bảo lãnh,
thư tín dụng không có ký quĩ và các giao dịch chiết khấu (gọi tắt là các khoản liên quan
đến tín dụng) có giá trị tới 15 tỷ đồng, hoặc 40 tỷ đồng cho Sở giao dịch và Chi nhánh
thành phố Hồ Chí Minh.
22. Hạn mức phê duyệt tín dụng của Hội đồng Tín dụng chi nhánh quy định theo bảng sau
đây. Những giới hạn này áp dụng cho việc cấp các khoản liên quan đến tín dụng:
11
Các dự án đầu tư Cho vay đối với DN
Giới hạn
(triệu đồng)
Các chi nhánh mới 20.000
Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn,
Nha Trang, Vũng Tàu, Vinh, Cần
Thơ, Đồng Nai, Quảng Ninh, An
Giang, Huế, Tân Thuận, Cà Mau,
Daklak, Bình Tây, Bình Dương,
Hà Tĩnh, Kiên Giang, Thái Bình,
Quảng Ngãi, Gia Lai
25.000
Chi nhánh Hà Nội 35.000
Các chi nhánh mới 40.000
Sở giao dịch, chi nhánh TP HCM Hà Tĩnh, Kiên Giang, Thái Bình,
Quảng Ngãi, Gia Lai
60.000
Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy
Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu,
Vinh, Cần Thơ, Đồng Nai, Quảng
Ninh, An Giang, Huế, Tân Thuận,
Cà Mau, Đaklak, Bình Tây, Bình
Dương
80.000
Sở giao dịch, chi nhánh TP HCM 120.000
Việc đánh giá và phê duyệt yêu cầu xin vay vượt quá những giới hạn trên được tiến hành bởi
Hội đồng Tín dụng Trung Ương.
Cấp phê duyệt tín dụng có thể phải thay đổi khi số lượng đơn xin vay tăng lên. Cơ cấu phê
duyệt tín dụng cần được thiết kế sao cho có thể đảm bảo việc phê duyệt các khoản vay chỉ
được thực hiện bởi các cá nhân có đủ kinh nghiệm và kiến thức, đồng thời độc lập với cán bộ
có quan hệ với khách hàng. Tuy nhiên, cơ cấu trúc phê duyệt này cũng cần đảm bảo công việc
được tiến hành một cách hiệu quả để tránh cách làm việc quan liêu và tập trung quá nhiều đơn
xin vay tại cấp trung ương, điều này có thể làm mất cơ hội cho vay do xử lý chậm. Về phương
diện này, việc áp dụng Hệ thống Chấm điểm Tín dụng sẽ có tác dụng tốt vì các đơn xin vay
không đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản của chính sách tín dụng của ngân hàng sẽ bị loại bỏ
ngay từ vòng đầu tiên.
3.4.3. Hạn mức tín dụng – tổng hạn mức cho vay đối với một khách hàng,
một nhóm khách hàng và toàn bộ danh mục cho vay
Hạn mức tín dụng cần được thiết lập nhằm:
23. Kiểm soát rủi ro tín dụng đối với từng khách hàng và nhóm các khách hàng liên quan với
nhau;
24. Đảm bảo rằng danh mục tín dụng được đa dạng hoá một cách hợp lý và phù hợp với danh
mục mục tiêu theo từng ngành nghề, từng khu vực kinh tế, vị trí địa lý và từng loại sản
phẩm; và
25. Đảm bảo tuân thủ với các yêu cầu về giới hạn cho vay của Ngân hàng Nhà nước.
Ban Giám đốc của Ngân hàng đã ra Quyết định số 408/QĐ-NHNT ngày 29 tháng 3 năm
2002, xác định quy trình mà các Hội đồng Tín dụng trung ương và cơ sở thiết lập giới hạn cho
vay với từng khách hàng theo các giới hạn đã được đặt ra ở phần 3.4.2.
Những hướng dẫn sau đây cần phải được xem xét trong quá trình thiết lập các hạn mức:
12
Cơ sở thiết lập
26. Ban đầu, hạn mức tín dụng cho từng khách hàng vay được thiết lập dựa trên phân loại rủi
ro được xác định theo Hệ thống Cho điểm Rủi ro Tín dụng. Những khách hàng có mức
xếp hạng tốt sẽ được cấp hạn mức tín dụng cao hơn. Hạn mức tín dụng cho mỗi khách
hàng vay không quá 15% vốn tự có của Ngân hàng, như quy định tại Điều 18, Quyết định
số 1627/2001/QD-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 31 tháng 12 năm 2001.
27. Tiếp đó, hạn mức tín dụng sẽ được xem xét thêm trong quá trình thẩm định tín dụng, khi
cán bộ tín dụng phân tích sâu hơn về rủi ro kinh doanh và nhu cầu tài chính thực tế của
doanh nghiệp. Dựa trên việc phân tích và kiểm tra các thông tin tài chính sẵn co, cán bộ
tín dụng có thể xác định khả năng trả nợ của người vay đối với các khoản nợ từ ******
(và các ngân hàng khác) và từ đó có thể thiết lập một hạn mức tín dụng phù hợp.
Các loại rủi ro tín dụng được tính đến trong tổng hạn mức tín dụng:
28. Hạn mức “toàn bộ” được thiết lập trên cơ sở toàn bộ những rủi ro liên quan đến khách
hàng vay và các hạn mức con sẽ được thiết lập cho từng loại hình sản phẩm cụ thể.
29. Các hạn mức toàn bộ phải tính đến tất cả các rủi ro của từng khách hàng cụ thể trên tất cả
các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng: tín dụng, tài trợ thương mại (ngoại bảng), các giao
dịch liên ngân hàng, các giao dịch vốn và kinh doanh ngoại tệ, và bất kỳ các giao dịch
nào khác có liên quan đến rủi ro tín dụng.
30. Hạn mức toàn bộ cũng cần được thiết lập cho nhóm những người vay liên kết (hoặc có
quan hệ với nhau) bên cạnh hạn mức toàn bộ cho từng khách hàng vay riêng lẻ. Hạn mức
nhóm có ý nghĩa quan trọng do khả năng cộng hưởng của các nhân tố liên quan đến rủi ro
tín dụng của các chủ thể trong nhóm các công ty và sự gia tăng mức độ tập trung rủi ro
đối với ngân hàng do sự liên kết này gây ra. Những người đi vay được xác định là “liên
kết” hay “có quan hệ” với nhau khi họ có chung giám đốc, hoặc đồng sở hữu tư nhân,
hoặc sở hữu cổ phần của nhau. Một ví dụ về mức độ tập trung rủi ro là khi hoạt động của
những khách hàng vay này phụ thuộc vào các giao dịch thương mại trong nội bộ nhóm.
“Hiệu ứng domino” có thể xảy ra khi sự thua lỗ của một công ty có thể dẫn đến sự thua lỗ
của các thành viên khác trong nhóm.
13
Sử dụng các hạn mức con
31. Trong phạm vi “hạn mức toàn bộ” được thiết lập cho một khách hàng vay, cần có các hạn
mức con nhằm thể hiện bản chất của các loại rủi ro tín dụng khác nhau. Các hạn mức con
cần được thiết lập dựa trên các rủi ro được xác định cho từng loại hình tín dụng với từng
mức thời gian đáo hạn khác nhau dành cho một khách hàng vay, ví dụ:
a. Các loại hình tín dụng – Thư tín dụng “trả ngay” thường được bảo đảm bằng các
khoản ký quỹ hoặc hàng hoá và do đó có thể được cấp hạn mức cao hơn một khoản
bảo lãnh không có tài sản đảm bảo.
b. Thời gian đáo hạn – Các khoản tín dụng ngắn hạn có thể có hạn mức cao hơn tín
dụng dài hạn vì sự không chắc chắn về khả năng trả nợ của người vay đối với các
khoản tín dụng dài hạn là nhiều hơn.
c. Loại tiền – Các khoản vay bằng đơn vị tiền tệ giống với đơn vị tiền tệ doanh thu của
doanh nghiệp có thể được cấp hạn mức cao hơn các khoản vay bằng những đơn vị
tiền tệ khác với đơn vị tiền tệ doanh thu của doanh nghiệp.
Các hạn mức đối với danh mục tín dụng tổng hợp
32. Các hạn mức áp dụng đối với danh mục tín dụng tổng hợp được xác định dựa trên chiến
lược tín dụng của Ngân hàng và mục tiêu của danh mục tín dụng tổng hợp đã được thông
qua trong chiến lược tín dụng.
33. Nhằm đảm bảo sự nhất quán trong việc áp dụng hạn mức tín dụng giữa các cán bộ tín
dụng và chi nhánh, một phạm vi các hạn mức cơ sở cho từng khách hàng riêng lẻ sẽ được
xây dựng và các cán bộ tín dụng có thể sử dụng chuỗi hạn mức này như là các “mức khởi
điểm”. Các hạn mức cơ sở này sẽ phụ thuộc vào mục tiêu của danh mục tín dụng tổng
hợp và có thể được xác lập dựa trên sự kết hợp giữa quy mô doanh nghiệp và các tiêu chí
của ngành như trong ví dụ dưới đây:
Ngành
Quy mô*
Nông nghiệp
Tỉ ĐVN
Xây dựng
Tỉ ĐVN
Năng
lượng
Tỉ ĐVN
Du lịch
Tỉ ĐVN
Khai mỏ
Tỉ ĐVN
Thương mại
Tỉ ĐVN
Nhỏ 5-10 5-15 10-20 5-15 10-20 5-15
Vừa 10-20 15-50 20-50 15-40 20-50 15-40
Lớn 20-50 50-100 50-150 40-100 50-100 40-100
* Quy mô được phân loại theo cách phân loại trong Hệ thống Cho điểm Rủi ro Tín dụng trong Phụ lục
2.
Giám sát rủi ro - so sánh với hạn mức tín dụng và định kỳ kiểm tra các hạn mức
34. Rủi ro thực tế so với hạn mức cần được giám sát theo từng khách hàng vay, nhóm các
khách hàng vay liên kết và trên cơ sở danh mục tín dụng tổng hợp.
35. Bù trừ số dư có thể được sử dụng để giảm rủi ro tín dụng ví dụ như đối với các giao dịch
liên ngân hàng. Để có thể thực sự giảm thiểu rủi ro, việc bù trừ cần phải có thể được thực
thi một cách hợp pháp.
36. Những khoản vượt quá hạn mức toàn bộ cần được Hội đồng tín dụng thông qua đối với
từng trường hợp cụ thể dựa trên việc xem xét chất lượng của các khoản tài sản đảm bảo
bổ sung mà khách hàng vay nộp thêm cho Ngân hàng.
37. Tính thực tiễn của các hạn mức tín dụng được xác định cho từng khách hàng vay cụ thể
cần được xem xét định kỳ bởi Bộ phận Kiểm tra Tín dụng Độc lập.
3.4.4. Quản lý tín dụng - các chính sách về các hồ sơ tín dụng, hợp đồng,
tài sản thế chấp
Chức năng quản lý tín dụng là yếu tố chủ chốt bảo đảm khoản cho vay được duy trì một cách
đúng đắn sau khi vốn đã được giải ngân. Cụ thể, chức năng quản lý tín dụng bảo đảm cho các
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét