Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Huy), Hạng Vũ bị đánh thua, bỏ chạy đến sông Ô thì tự sát. Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, hiệu là Hán Cao
Tổ.
Chính quyền nhà Hán do Lưu Bang thành lập là chính quyền quân chủ chuyên chế tập quyền. Lúc mới
thành lập, các công thần của Hán Cao Tổ nắm giữ nhiều vùng đất đai rộng lớn, Hán Cao Tổ đã tìm cách
ám hại những người này (Hàn Tín, Bành Việt, Kình Bố v.v ) để thu hồi lại đất đai, nhưng sau đó lại
phân cấp đất đai cho anh em con cháu mình làm vương hầu. Vì thế chính quyền trung ương ở đầu đời Hán
chưa thực sự được củng cố. Về mặt kinh tế xã hội, Hán Cao Tổ đã ban hành nhiều chính sách tiến bộ, nhờ
đó đã sớm ổn định được xã hội và phát triển nền kinh tế, đặt nền móng cho sự thiết lập một đế quốc hùng
mạnh trong lịch sử phong kiến Trung Quốc - đế quốc Hán.
La quán Trung (k.1328 - 1398)
La Quán Trung - nhà văn lớn của Trung Quốc cuối Nguyên, đầu Minh, tác giả Tam Quốc chí diễn nghĩa.
La Quán Trung, tên chính là Bản, tự Quán Trung, ham mê du lịch nên còn biệt hiệu Hồ Hải tản nhân.
Tương truyền La Quán Trung xuất thân bản gia đình quý tộc ở đất Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Từ nhỏ, La
Quán Trung đã nổi tiếng là người hay chữ, có tài văn chương. Tuổi thanh niên, ông nuôi chí phò vua giúp
nước; song lúc đó, triều đình nhà Nguyên đang suy tàn, ông bỏ đi phiêu lãng. Có tài liệu nói, ông tham gia
nghĩa quân nông dân Trương Sĩ Thành chống Nguyên. Sau khi Chu Nguyên Chương diệt nghĩa quân
Trương Sĩ Thành, ông không tham gia hoạt động chính trị nữa, mà chuyển sang hoạt động văn chương.
Ngoài Tam Quốc chí diễn nghĩa, ông còn có những bộ tiểu thuyết khác như Tùy Đường lưỡng triều chỉ
truyện, Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa Những bộ tiểu thuyết này của ông đã bị người đời sau thay đổi
đi nhiều không còn như nguyên tác nữa.
Sáng tác Tam Quốc chí diễn nghĩa, La Quán Trung căn cứ vào những truyện kể dân gian, có tham khảo bộ
chính sử Tam Quốc chí của Trần Thọ (viết vào đời Tấn), và Tam Quốc chí chú của Bùi Tùng Chi (đời
Lưu Tống - Nam Triều).
Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung gồm 240 hồi, kể lại cuộc tranh chấp giữa ba tập đoàn phong
kiến Ngụy, Thục, Ngô thời Tam Quốc, diễn tả sinh động những nhân vật, những cuộc chiến tranh tàn
khốc, những tai họa và nỗi thống khổ của nhân dân Tác phẩm là một bộ bách khoa về lịch sử, quan hệ
xã hội, đặc biệt có nhiều tri thức vầ quân sự. Bộ Tam Quốc chí diễn nghĩa về sau được Mao Tôn Cương
(đời Thanh) chỉnh lý còn 120 hồi và thêm lời bàn, hiện nay đang lưu truyền.
Tào Tuyết Cần (1723-1763)
Tào Tuyết Cần, - nhà văn lớn đời Thanh, Trung Quốc, tác giả tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng.
Tào Tuyết Cần tên là Chiêm, tự Mông Nguyên, xuất thân trong một gia đình quý tộc người Hán, nhập
quốc tịch Mãn Châu. Ông sinh ở Nam Kinh, nhưng sống và làm việc tại Bắc Kinh. Bố của Tào Tuyết Cần
là một quý tộc quan lại nhà Thanh, nhưng đế đời vua Ung Chính thì bị cách chức, từ đó gia cảnh sa sút,
cuộc sống túng thiếu. Thuở niêu thiếu, Tào Tuyết Cần luôn sống trong cảnh bần hàn, cô độc và bất đắc
chí, do vậy ông đã nhận rõ sự mục nát và những thói hư tật xấu của bọn vua quan phong kiến Mãn Thanh.
Tào Tuyết Cần có thái độ phê phán nghiêm khắc về chế độ khoa cử đương thời,về chức tôn giáo và những
đạo đức cổ hủ của xã hội phong kiến Trung Quốc.
Hồng Lâu Mộng (giấc mộng lầu son) miêu tả một cách sinh động và sâu sắc xã hội phong kiến Trung
Quốc đang trong thời kỳ suy tàn. Thông qua tấn bi kịch của đôi thanh niên nam nữ Giả Bảo Ngọc, một
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
5
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
chàng công tử quý tộc là Lâm Đại Ngọc, một cô gái xinh đẹp, bệnh tật, cõi cút, tác giả đã khắc họa sự thối
nát của xã hội đại quý tộc và những con bài của nó. Bộ tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng gồm 120 hồi, nhưng
Tào Tuyết Cần mới xong 80 hồi đầu thì mất, hơn 20 năm sau, Cao Ngạc, một nhà văn từng đỗ tiến sĩ, có
lẽ được xem qua bản thảo viết dở của Tào Tuyết Cần, đã viết tiếp mà rất ăn khớp 40 hồi sau.
ASÔCA (292 - 237 TCN)
Asôca (Asoka) - hoàng đế ấn Độ thuộc vương triều Môria (273 - 237 TCN), một trong những hoàng đế
nổi tiếng trong lịch sử ấn Độ cổ đại.
Asôca đã tiến hành lần đầu tiên trong lịch sử cổ đại ấn Độ, công cuộc thống nhất gần như toàn vẹn bán
đảo ấn Độ, (trừ phần cực nam), thiết lập nên một đế quốc rộng lớn, hùng cường.
Asôca đã cho xây dựng nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là việc xây dựng kinh đô Pataliputơra với
nhiều chùa chiền, cung điện, dinh thự trên một quy mô lớn và một trình độ kiến trúc cao. Từ thời Asôca
còn để lại đến ngày nay một số cột ghi pháp lệnh của nhà vua bằng đá nguyên khối, đỉnh cột có tạc hình
thú vật (sư sử, voi, bò rừng, ngựa).
Dưới thời Asôca, đạo Phật phát triển mạnh và được coi là quốc giáo. Nhà vua đã gia nhập hội Phật giáo.
Dưới sự bảo trợ của Asôca, lần đầu tiên trong lịch sử ấn Độ và lịch sử Phật giáo, một đại hội Phật giáo có
tính chất quốc gia đã được triệu tập tại kinh đô Pataliputơra. Nhờ đại hội này, giáo hội Phật giáo đã được
củng cố và hoàn thiện với hệ thống tổ chức, giáo lý, lễ nghi và cùng với nó là việc xuất hiện nhiều chùa
chiền, nhiều ngôi mộ hình tháp (stupa) Asôca còn khuyến khích việc truyền bá đạo Phật ra nước ngoài.
Một phái đoàn trong đó có em trai và em gái của Asôca tham gia đã được phái sang truyền đạo ở Xrilanca
(đảo Xâylan) và trồng cây bồ đề làm lưu niệm ở bên đó.
ASÔCA (292 - 237 TCN)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
6
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
ACƠBA (1542 - 1605)
Acơba (Akbar) - hoàng đế hùng cường nhất của triều đại Môgôn ở ấn Độ, trị vì 1556 - 1605.
Acơba sinh ra trong lúc vua cha là Humayun đang trên đường đi lánh nạn. Từ nhỏ, Acơba đã biểu lộ một
tư chất đặc biệt về thể thao và võ nghệ. Khi Hamayun khôi phục lại được ngôi báu, Acơba mới 13 tuổi đã
được phong làm tổng trấn xứ Pungiap và năm 14 tuổi, khi vua cha mất, lên ngôi hoàng đế ở Đêli.
Acơba một mặt thiết lập chính quyền chuyên chế tập trung cao độ, tiến hành chinh phục và đàn áp khốc
liệt các vùng lân cận không chịu quy thuận; mặt khác, lại thi hành chính sách khoan dung đối với mọi tôn
giáo. Tuy là một tín đồ trung thành của đạo Hồi, ông đã có một thái độ rất độ lượng đối với mọi tôn giáo
đang tồn tại ở ấn Độ. Ông đã ra lệnh bãi bỏ "thuế đầu người" hay "thuế ngoại đạo", một thuế đánh vào bất
cứ người dân nào không theo đạo Hồi. Ông khuyến khích quý tộc Mông Cổ kết thân với quý tộc ấn Độ
theo ấn giáo. Chính Acơba cũng lấy một công chúa xứ Ratputana theo ấn giáo làm vợ và tuyển nhiều cung
phi là con gái của các gia đình quý tộc ấn Độ. Acơba thực hiện chính sách trọng đãi người tài, tuyển dụng
cả những người ấn Độ theo ấn giáo vào những chức vụ cao trong chính quyền. Do đó, Acơba đã đưa đế
quốc Môgôn trở thành đế quốc hùng cường nhất trong lịch sử ấn Độ.
Tuy bản thân không biết chữ, nhưng Acơba rất trọng đãi các trí thức và văn nghệ sĩ. Trong cung điện của
Acơba thường tổ chức những buổi bàn luận của các học giả. Nhà vua hăng hái tham gia thảo luận với họ
về các vấn đề văn học, triết học, tôn giáo. Acơba đã cho thành lập một thư viện lớn gồm hàng vạn cuốn
sách chép tay và những bản dịch sách cổ ấn Độ sang tiếng Ba Tư (ngôn ngữ được sử dụng ở triều đình
Môgôn). Một sử gia đã gọi Acơba là "nhà vua học giả uyên bác không biết chữ".
KILIĐASA (T.K.IV-V)
Kaliđasa - nhà thơ lớn của ấn Độ, ở thời Gupta, tác giả vở kịch Sơkuntơla nổi tiếng.
Theo truyền thuyết, Kaliđasa mồ côi cả cha lẫn mẹ từ bè, được một người chăn bò nuôi dưỡng. Lớn lên,
Kađiđasa là một chàng trai khỏe mạnh, nhưng trí tuệ rất kém cỏi. Về sau được nữ thần Kali truyền cho trí
tuệ và óc thông minh. Do vậy, ông đã lấy tên là "kẻ nô lệ của thần Kali" (Kaliđasa). Kaliđasa đã hấp thụ
được những truyền thống văn hóa lâu đời và rực rỡ của nền văn minh ấn Độ. Bản chất là một người yêu
thiên nhiên, yêu cái đẹp, đặc biệt là lòng thương yêu con người sâu sắc, Kaliđasa đã tiếp tục phát triền chủ
đề tình yêu trong một xã hội mà chế độ đẳng cấp khắc nghiệt đang ngự trị, và có lẽ cũng chính vì thế
Kaliđasa đã trở thành một trong những nhà thơ, nhà viết kịch lớn của thời đại. Kaliđasa được vua ấn Độ
Vikrammađitya (biệt hiệu của Chandragupta II) mời vào cung và được coi là một trong chín viên ngọc
quý của hoàng cung.
Kaliđasa có nhiều sáng tác về thơ ca, về kịch, trong đó nổi tiếng nhất là tập thơ trỡ tình Mây đưa tin và vở
kịch thơ Sơkuntơla viết bằng tiếng Sănxkri. Đối với nhân dân ấn Độ, Sơkuntơla của Kaliđasa từ lâu đã đi
vào tâm tư tình cảm của họ, đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho những sáng tác, những hoạt động
văn hóa của họ (ngâm vịnh, diễn kịch, đóng phim, hội họa, âm nhạc ). Kaliđasa cũng được dịch ra nhiều
thứ tiếng trên thế giới, đã được dàn dựng ôpêra, quay phim và công diễn ở khắp mọi nơi.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
7
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
GAMA (VAXCÔ ĐƠ) (k. 1469 - 1524)
Vaxcô đơ Gama (Vasco de Gama) - nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã hoàn thành cuộc thám hiểm vòng quanh
châu Phi sang ấn Độ lần đầu tiên (1497 - 1498).
Vaxcô đơ Gama thủy thủ Đồ Đào Nha, từ thời niên thiếu đã theo các tàu buôn qua lại nhiều nước ở châu
Âu và dọc bờ biển châu Phi. Sau cuộc thám hiểm thành công của Bactôlômêu Điaxơ tới mỏm cực Nam
châu Phi (1487), nhiều nhà hàng hải muốn tiếp tục hoàn thành cuộc thám hiểm sang ấn Độ, nhưng vua Bồ
Đào Nha đã chọn Vaxcô đơ Gama, nhà hàng hải dũng cảm và có chí lớn này thực hiện.
Ngày 6-7-1497, Vaxcô đơ Gama chỉ huy đoàn tàu gồm 4 chiếc Caravela cùng 168 thủy thủ, mở đầu cuộc
thám hiểm. Cuối năm, họ tới mũi Bão Táp và đi lên phía Bắc. Vaxcô đơ Gama loanh quanh ở bờ biển phía
đông Châu Phi một thời gian không dám vượt qua ấn Độ Dương. Sau nhờ một thủy thủ ARập thông thuộc
đường đi và hiểu biết gió mùa ở ấn Độ Dương dẫn đường đoàn tàu của Vaxcô đơ Gama cập được bến
Calicut ở bờ biển Tây Nam ấn Độ (1498). Lưu lại ở đây hơn một năm, tiến hành nhiều cuộc cướp bóc và
cũng xảy ra nhiều vụ xung đột với các tàu buôn ARập và dân địa phương, đến tháng 8-1499, đoàn tàu của
Vaxcô đơ Gama trở về nước, chỉ còn 55 người sống sót, nhưng chở về đầy vàng và hương liệu. Sau đó,
Vaxcô đơ Gama còn trở lại ấn Độ nhiều lần và đã hi sinh trên đất ấn Độ.
GAMA (VAXCÔ ĐƠ)
( 1469 - 1524)
CÔLÔMBÔ (1451 - 1506)
Crixtôphôrô Côlômbô (Christophoro Colombo) - nhà hàng hải Italia, phục vụ triều đình vua Tây Ban Nha,
thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên qua Đại Tây Dương và tìm ra châu Mỹ.
Côlômbô xuất thân trong gia đình công nhân dệt ở Giênôva, một hải cảng sầm uất ở phía Bắc Italia. Ông
thường có những suy nghĩ táo bạo và lãng mạn, luôn mơ ước vượt trùng dương tới miền đất xa lạ. Ông đã
nhiều lần vượt biển theo các đoàn tàu buôn. Năm 1476, ông sang Bồ Đào Nha đề xuất dự án vượt đại
dương theo hướng tây tới Nhật Bản và Trung Quốc, nhưng vua Bồ Đào Nha không chấp thuận. Ông bỏ
sang Tây Ban Nha và được vua Tây Ban Nha Phecnanđô và nữ hoàng Ixabenla chấp nhận dự án và cấp
kinh phí cho ông thực hiện cuộc thám hiểm.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
8
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Ngày 3-8-1492, Côlômbô được phong Đô đốc, cầm đầu một đoàn tàu gồm ba thuyền buồm và 60 thủy thủ
rời cảng Palôxơ (Nam Tây Ban Nha) đi tìm đường sang ấn Độ theo hướng tây. Sau hai tháng rưỡi lênh
đênh ngoài biển khơi Đại Tây Dương đầy gian khổ và lo âu, ngày 12-10-1492, đoàn tàu của Côlômbô đến
được vùng quần đảo Bahama, rồi Cuba và Haiti. Côlômbô tưởng rằng mình đã đến Nhật Bản hoặc những
hòn đảo ven bờ ấn Độ (cho nên ông gọi dân bản xứ là người ấn Độ - Indian). Nhưng gần nửa năm sục sạo
ở các hòn đảo này, ông không tìm thấy hạt tiêu và hương liệu và những thứ hàng đắt giá ở châu Âu, mà
chỉ thu hoạch được một ít vàng và đường. Tháng 3-1943, ông trở về Tây Ban Nha, được triều đình và
nhân dân Tây Ban Nha đón tiếp trọng thể. Ông được vua Tây Ban Nha phong phó vương các thuộc địa ở
Tần lục địa.
Từ 1493 - 1504, Côlômbô còn thực hiện ba chuyến thám hiểm nữa sang lục địa mới. Ông đã khám phá ra
hầu hết các đảo trên quần đảo Ăngti và cả bờ biển Trung Mỹ. Nhưng số vàng bạc và của cải mà ông mang
về cho vua Tây Ban Nha quá ít ỏi, vì thế ông không được nhà vua tín nhiệm nữa. Năm 1506, ông mất tại
một thành phố nhỏ ở miền Bắc Tây Ban Nha trong sự nghèo khổ và lãng quên.
Christopher Columbus (c. 1446-1506)
Magienlan (1480 - 1521)
Phecnan đơ Magienlan (Fernand de Magellan) - nhà hàng hải nổi tiếng, thực hiện chuyến thám hiểm đầu
tiên vòng quanh trái đất (1519 - 1522)
Magienlan, thủy thủ người Bồ Đào Nha, đã tham gia nhiều chuyến đi biển men theo bờ biển Tây Phi và
Đông Phi. Ông luôn có hoài bảo vượt trùng dương, đến những chân trời xa lạ.
Năm 1517, Magienlan đến thành phố Sêvila (Tây Ban Nha) được hoàng đế Tây Ban Nha ưu ái giúp đỡ.
Năm 1518, ông cưới con gái nhà quý tộc quyền thế Tây Ban Nha. Hoàng đế Tây Ban Nha trích công quỹ
chi phí cho chuyến thám hiểm của? Magienlan như mua sắm tàu bè, vũ khí, chiêu mộ thủy thủ Ngày
20/9/1519, ông chỉ huy đoàn tàu gồm 5 chiếc và 265 thủy thủ thực hiện cuộc hành trình vòng quanh thế
giới. Sau khi đi dọc theo bờ biển Nam Mỹ, men theo bờ biển phía Đông, ông đã tìm ra một eo biển, ở giữa
mũi cực Nam của đại lục này với đảo Đất Lửa, về sau eo biển này mang tên ông, eo Magienlan. Tiếp theo,
đoàn thám hiểm đi vào một đại dương trong cảnh bể lặng sóng yên. Magienlan đặt tên là Thái Bình
Dương. Thái Bình Dương rộng lớn hơn Đại Tây Dương nhiều. Đoàn thám hiểm lênh đênh giữa biển khơi
hơn một năm trời, đói khát, bệnh tật đã làm họ kiệt quệ. Tháng 2.1521, đoàn thám hiểm đến Philipin.
Magienlan tìm thấy ở đây có nhiều hồ tiêu, hương liệu, mặt hàng rất quý đối với châu Âu. Trong những
cuộc đụng độ, cướp đoạt những sản phẩm này của dân bản xứ nhiều thủy thủ bị giết, bản thân Magienlan
cũng bị chết ngày 6/3/1521. Đoàn thám hiểm chỉ còn một tàu vượt qua mũi Nam
Phi trở về nước.
Ngày 15/4/1522, đoàn thám hiểm về đến Tây Ban Nha chỉ còn lại 13 thủy
thủ, nhưng trên tàu đầy ắp hương liệu. Magienlan cùng các thủy thủ đã thực
hiện một cuộc hành trình - một chuyến đi vòng quanh thế giới lần đầu tiên.
Cuộc thám hiểm đã khẳng định là Trái Đất hình tròn.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
9
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Ferdinand Magellan (c. 1480-1521)
CANVANH (1509 - 1564).
Giăng Canvanh (Jean Calvin) - nhà cải cách tôn giáo Pháp, người sáng lập giáo hội Tin lành ở Giơnevơ và
đã gây ra một phong trào cải cách tôn giáo rộng lớn ở châu Âu.
Canvanh sinh ngày 10-9-1509 tại thị trấn Noayông, miền Bắc nước Pháp. Cha ông làm thư ký cho vị giám
mục của xứ này, và muốn con mình trở thành luật sư, nên đã gửi ông học luật ở trường đại học Pari. Tại
thủ đô nước Pháp, ông đã tiếp thu tư tưởng của các nhà nhân văn chủ nghĩa và tư tưởng cải cách tôn giáo
của Luthơ. Khi chính quyền quân chủ chuyên chế Pháp tiến hành khủng bố những người theo cải cách tôn
giáo, ông đã bỏ sang Đức, rồi sau định cư ở Giơnevơ.
Năm 1536, ông đã cho ra mắt công chúng tác phẩm Thiết chế của đạo Kitô, trình bày một cách hệ thống
tư tưởng cải cách tôn giáo. Giáo lý căn bản của ông là thuyết định mệnh. Ông cho rằng số phận của mỗi
người, giàu hay nghèo, là do Chúa trời định. Nhưng người ta không biết được số mệnh của mình, mà cứ
phải lao động, kinh doanh kiếm tiền hết sức mình, còn kết quả thành bại là do Thượng đế quyết định.
Thuyết định mệnh của Canvanh phản ảnh đúng thực trạng tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, nhưng
nó cũng thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Năm 1541, Canvanh đã xây dựng ở Giơnevơ một tổ chức Công xã của những người được lựa chọn hay
quốc gia của Canvanh giáo. Nhà thờ của giáo hội Canvanh được trang trí đơn giản, mục sư là người giảng
giải giáo lý (chủ yếu là kinh Phúc âm) và lo về phần hồn của tín đồ. Vai trò quản lý của công xã là thuộc
về Hội đồng trưởng lão do tín đồ bầu ra.
Tôn giáo cải cách của Canvanh đáp ứng được yêu cầu về tư tưởng và tổ chức của giai cấp tư sản, cho nên
đã truyền bá rộng rãi ở Pháp, Anh và nhất là ở Nêđeclan.
LUTHƠ (1483 - 1546)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
10
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Mactin Luthơ (Martin Luther) - nhà thần học, nhà cải cách tôn giáo ở Đức vào thế kỉ XVI, người đề
xướng ra tôn giáo mới (Tân giáo) hay đạo Tin lành chống giáo hội Thiên chúa giáo phản động. Luthơ sinh
ngày 10-10-1483 ở thị trấn Âyxlêben, miền Trung nước Đức. Cha ông là chủ hầm mỏ và lò luyện sắt. Cha
mẹ ông đều là những con chiên ngoan đạo, ông được học trường dòng và trở thành tu sĩ. Sau khi tốt
nghiệp tiến sĩ thần học, năm 1513, ông làm giáo sư triết và thần học ở trường đại học Vitttenbec. Nghiên
cứu hình thức tổ chức và lễ nghi đơn giản của đạo Kitô nguyên thủy và chịu ảnh hưởng những tư tưởng
của các nhà nhân văn và cải cách giáo hội trước, Luthơ đã đề ra chủ trương "sự cứu vớt con người bằng
lòng tin", có nghĩa là con người sẽ được cứu vớt bằng lòng tin vào Thượng đế, chứ không cần những lễ
nghi phiền toái, tốn kém, tổ chức đẳng cấp giáo hội phức tạp và chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến của
giáo hội. Hay nói cách khác, Luthơ đã phát biểu quan điểm giáo hội "rẻ tiền" của giai cấp tư sản. Năm
1517, Luthơ đứng lên phản đối việc bán thẻ xá tội của Giáo hoàng và viết một bài văn gồm 95 luận điểm
để trình bày quan điểm của mình và đem dán ở trước cửa trường đại học Viitenbec. Năm 1520, Giáo
hoàng ban hành chiếu chỉ rút phép thông công (khai trừ khỏi giáo hội) đối với Luthơ. Sinh viên ở trường
đại học Vittenbec và đông đảo nhân dân quanh vùng, đã đem chiếu chỉ của Giáo hoàng rút phép thông
công Luthơ ra đốt. Cuộc vận động cải cách tôn giáo ở Đức bắt đầu. Một số quý tộc phong kiến Đức đã đi
theo tôn giáo cải cách (Tân giáo) để chiếm đoạt tài sản và tịch thu ruộng đất của giáo hội Thiên chúa giáo.
Nông dân Đức cũng nổi dậy chống lại cả giáo hội Thiên chúa giáo lẫn quý tộc phong kiến trong cuộc
chiến tranh nông dân Đức (1524 - 1525). Luthơ đứng về phía quý tộc phong kiến Đức, kêu gọi quý tộc
đàn áp cuộc khởi nghĩa nông dân. Cải cách tôn giáo của Luthơ trở thành công cụ của một bộ phận quý tộc
phong kiến Đức tăng cường thế lực chống lại hoàng đế Đức và bộ phận quý tộc phong kiến vẫn duy trì
đạo Thiên chúa (gọi là phái Cựu giáo). Cuộc chiến tranh giữa hai phái Tân giáo và Cựu giáo trong suốt hai
thế kỷ XVI - XVII đã làm cho nước Đức bị tàn phá và kiệt quệ.
Muynxơ (Tômat) (1490-1525)
Tômat Muynxơ (Thomas Munzer hay Muntzer) - nhà cải cách tôn giáo, lãnh tụ cuộc Đại chiến tranh nông
dân ở Đức.
Muynxơ xuất thân gia đình thợ mỏ. Bố ông bị bọn quý tộc phong kiến treo cổ vì có thái độ phản kháng lại
chúng. Muynxơ căm thù bọn quý tộc phong kiến, cố gắng học hành, tốt nghiệp tiến sĩ thần học và làm linh
mục ở nhà thờ Xơvichacao. Xơvichcao là một thành phố công nghiệp vùng Dăcden, ở đây phong trào cải
cách tôn giáo của nhân dân lao động gọi là phong trào "rửa tội lại", diễn ra sôi nổi. Muynxơ trở thành
người lãnh đạo phái "rửa tội lại"
Khi phong trào cải cách tôn giáo của Luthơ diễn ra, Muynxơ nhiệt liệt hoan nghênh. Nhưng tư tưởng cách
mạng triệt để của Mynxơ khác xa với tư tưởng cải lương, thỏa hiệp của Luthơ. Bị trục xuất khỏi
Xơvichcao,? Muynxơ sang Tiệp, liên kết với phái Huxơ (phong trào cải cách tôn giáo tích cực do Gian
Hunxơ phát động). Khi phong trào khởi nghĩa của nông dân bùng nổ mạnh mẽ ở Đức, ông trở về nước.
Cuối năm 1524, Muynxơ tham gia cuộc khởi nghĩa nông dân ở Sơvaben và công bố Bức thư luận cương,
trình bày cương lĩnh của phong trào bình dân và nông dân. Đầu năm 1525, Muynxơ trở về thành phố
Muynhaoden (Dắc den) và trực tiếp lãnh đạo phong trào quần chúng ở đây. Sau khi cuộc khởi nghĩa của
dân nghèo ở Muynhaoden giành được thắng lợi, Muynxơ được bầu làm Chủ tịch Hội đồng thành phố.
Ông đã xây dựng một đạo quân mạnh bảo vệ thành phố và hỗ trợ cho phong trào cách mạng của nông dân,
thị dân, thợ mỏ ở các vùng xung quanh. Bọn lãnh chúa phong kiến đã liên kết với nhau tấn công nghĩa
quân. Quân phong kiến có kị binh, pháo binh yểm trợ, ưu thế hơn nghĩa quân. Nghĩa quân tuy có tinh thần
chiến đấu cao, nhưng vì trang bị kém, huấn luyện chưa đầy đủ, những người chỉ huy thiếu kinh nghiệm tổ
chức và chiến đấu, nên nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề. Muynxơ bị thương nặng, bị bắt, sau đó bị bọn
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
11
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
phong kiến tra tấn dã man, nhưng ông nhất định không chịu khuất phục. Bọn phong kiến đã đem Muynxơ
ra chặt
Muynxơ (Tômat) (1490-1525)
Orăng (Ghiôm) (1533-1584)
Ghiôm I Orăng - Natxâu (Guillaume I er d'Orange - Nassau) - lãnh tụ cuộc cách mạng tư sản Nêđeclan
(Xứ thấp), quốc trưởng đầu tiên của các tỉnh liên hiệp (tức Hà Lan).
Ghiôm I Orăng - Natxâu là con cả của bá tước Ghiôm VIII Natxâu, được thừa kế lãnh địa ở Orăng, nên
mang họ Orăng - Natxâu, một vương hầu của đế quốc Đức. Xứ Nêđêclan là lãnh thổ của đế quốc Đức hay
đế quốc thần thánh Rôma - Giecmani. Năm 1556, hoàng đế Đức Saclơ Canh (Charles V tức Charles
Quint) từ ngôi, đã giao Nêđeclan cho con mình là vua Tây Ban Nha Philippô II cai trị của Philippô II ở
Nêđeclan hết sức hà khắc, nhà vua bắt nhân dân đóng góp thuế khóa nặng nề và dựa vào giáo hội Thiên
chúa giáo khủng bố gắt gao đạo Tin lành, đạo này được đa số nhân dân Nêđeclan tin theo. Các tầng lớp xã
hội Nêđeclan đều bất mãn với chế độ cai trị của Tây Ban Nha. Một đoàn đại biểu quý tộc, do Ghiôm
Orăng cầm đầu, dâng lên người đại diện của Philippô II lời thỉnh cầu nhà vua giảm bớt chính sách hà
khắc, nhưng nhà vua không chấp nhận. Năm 1566, một cuộc nổi dậy của nhân dân kéo đến phá hủy các
nhà thờ của giáo hội Thiên chúa giáo (phong trào "phá hoại tượng thánh") mở đầu cuộc cách mạng tư sản
ở Nêđeclan. Vua Tây Ban Nha đưa quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Nhân dân Nêđeclan thành lập các
đội du kích (bọn quý tộc Tây Ban Nha gọi họ là "những kẻ khốn cùng") chiến đấu ở cả trong rừng lẫn
ngoài biển chống quân đội Tây Ban Nha. Ghiôm Orăng cũng tổ chức một đội quân đánh thuê về tham gia
chiến đấu. Ông được nghĩa quân bầu làm Thống lĩnh (cũng gọi là Quốc trưởng)
Cuộc chiến tranh cách mạng diễn ra ngày càng ác liệt, khí thế cách mạng của nhân dân ngày càng lên cao.
Năm 1579 bọn quý tộc bảo thủ và một bộ phận tư sản ở miền Nam Nêđeclan rút khỏi cuộc đấu tranh cách
mạng, thừa nhận sự thống trị của Tây Ban Nha 17 tỉnh miền Bắc kiên quyết chiến đấu đến khi giành được
thắng lợi, thành lập nước cộng hòa, gọi là "Các tỉnh liên hiệp" (về sau gọi theo tên? của một tỉnh quan
trọng nhất và có thủ đô Amxtecđam là Hà Lan). Năm 1584, Ghiôm Orăng người tiêu biểu cho cuộc đấu
tranh giải phóng Nêđeclan, bị một tên tay sai của Tây Ban Nha ám sát. Sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc được giao cho con ông là Môrit Orăng một người có tài tổ chức và chỉ huy quân đội. Năm 1609,
Tây Ban Nha phải ký hòa ước đình chiến với "Các Tỉnh liên hiệp" và năm 1648 chính thức thừa nhận nền
độc lập của "Các Tỉnh liên hiệp".
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
12
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
CRÔMOEN (1599 - 1658)
Ôlivơ Crômoen (Oliver Cromwell) - nhân vật chủ chốt của cách mạng tư sản Anh (1640 - 1660), người có
nhiều công lao đưa cuộc cách mạng đến thắng lợi và đã nắm chính quyền độc tài quân sự 1653 - 1658.
Crômoen là một địa chủ, đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, có tinh thần cách mạng, khả năng tổ chức và
chỉ huy quân sự. Năm 1640, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội. Trong Quốc hội, ông đã hăng hái chống
lại nhà vua và giáo hội Anh. Khi cuộc chiến tranh chống vua Saclơ I nổ ra (1642), ông đã tổ chức đạo
quân "kiểu mới", làm hạt nhân cho quân đội của Quốc hội (quân "đầu tròn", vì đầu tóc cắt ngắn, ăn mặc
giản dị). Đơn vị kị binh của Crômoen, do lòng dũng cảm và chí kiên quyết, được mệnh danh là "sườn sắt".
Quân đội "đầu tròn" của Quốc hội đã đánh bại quân đội "kị sĩ" của vua và bắt giam vua (1648).
Sau khi vua Anh Saclơ I bị xử tử (1649), chế độ Cộng hòa được thành lập. Chính phủ Cộng hòa đã phái
Crômoen mang quân đội sang đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Airơlen, Xcôtlen và tiến hành
chiến tranh với Hà Lan buộc nước xảy ra nhiều biến động do quần chúng lớp dưới không thỏa mãn với
những chính sách của chính phủ Cộng hòa, bọn sĩ quan cao cấp và bọn đại tư sản ở Luân Đôn đã ủng hộ
Crômoen thực hiện chế độ độc tài quân sự. Năm 1653, Hội đồng sĩ quan bầu Crômoen làm người đứng
đầu Chính phủ và phong cho ông chức vụ suốt đời làm Bảo hộ công. Lúc đầu, Crômoen còn chia sẻ quyền
lợi với một hội đổng quốc gia, nhưng từ 1655, ông nắm tất cả mọi quyền hành, không triệu tập cả Quốc
hội. Crômoen mất ngày 3-9-1658.
CRÔMOEN (1599 - 1658)
Oasinhtơn (1732-1799)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
13
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Gioóccgiơ Oasinhtơn (George Washington) - người lãnh đạo chủ yếu cuộc chiến tranh giành độc lập ở
Bắc Kỳ, Tổng chỉ huy quân khởi nghĩa và Tổng thống đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1789-1796)
Oasinhtơn là một điền chủ giàu có ở bang Vơcginia. Khi 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ nổi dậy giành độc
lập, triệu tập Đại hội lục địa ở Philađenphia (1774), Oasinhtơn là một trongnhững đại biểu của Bang
Vơcginia và được cử làm Tổng chỉ huy quân đội lục địa (1776)
Oashingtơn có công lớn trong việc tổ chức quân đội cách mạng. Đội quân cách mạng có tinh thần yêu
nước, hy sinh chiến đấu, nhưng kỷ luật kém và thiếu thốn đủ mọi thứ, nhất là vũ khí. Oasinhtơn đã thực
hiện chiến thuật chiến đấu mới là phân tán lực lượng, bố trí lực lượng kín đáo trong rừng, thành từng toán
bắn tỉa để chống lại quân đội Anh theo đội hình dàn hàng ngang. Quân của Oasinhtơn đã liên kết với quân
Pháp do chính phủ Pháp gửi sang giúp đỡ cách mạng Bắc Mỹ chiến đấu chống quân đội Anh. Năm 1789,
Oasinhtơn được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Hợp chúng quốc châu Mĩ và bốn năm sau (1792), ông
được bầu lại lần thứ hai. Ông mất năm 1799.
Oasinhtơn (1732-1799)
Louis XVI. 1754-1793.
Môngtexkiơ (1689-1755)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét